DC&PT - Thời Sự 2019
LỘ
MẶT MỘT DƯ LUẬN VIÊN
CHẠY
TỘI CHO CUỘC ĐI ĐÊM Ô NHỤC Ở THÀNH ĐÔ
PHẠM Đ̀NH TRỌNG
1. Facebooker có nick
Tran Thanh Chuong ngày 4.5.2019 có bài viết chạy tội cho
một sự kiện đớn hèn, tội lỗi của
đảng cộng sản Việt Nam. Để tăng
độ tin cậy vào những điều lừa dối
trong bài viết Phải Hiểu Cho Đúng Về Hội
Nghị Thành Đô, dư luận viên này tự nhận là
bác sĩ, nhà thơ, nhà văn và “tôi có người bạn thân
làm việc ở Bộ ngoại giao từ những năm
1980. Về sau, anh là Đại sứ đặc mệnh
toàn quyền tại một nước châu Âu. Qua anh, tôi
biết được khá nhiều điều bí mật và
tế nhị phía “hậu trường” liên quan đến
sự kiện này”
Rồi Dư luận
viên Tran Thanh Chuong lên giọng tuyên giáo cấp phường:
“- Tuyệt
đại đa số nhân dân trong nước tin
tưởng vào lănh đạo Đảng ta thời đó
th́ đánh giá: Hội nghị này đóng vai tṛ tích cực và
có lợi cho Việt Nam.”
“Theo đánh giá của
tôi, Hội nghị là kết quả tất yếu đáp
ứng đ̣i hỏi bức thiết của t́nh thế
đất nước ta thời đó. Nó được
tiến hành ṣng phẳng, vị thế hai bên ngang ngửa,
cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều
được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên giành
thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam. V́:
- Nhờ chấm
dứt chiến tranh, b́nh thường hoá quan hệ
giữa hai nước, tiến tới cắm mốc biên
giới để từ đó Trung Quốc trở thành
đối tác kinh tế lớn nhất của nước
ta.
- Phái Khmer đỏ
dần dần bị loại bỏ, chính quyền của
Thủ tướng Hun Sen do ta ủng hộ vẫn
vững mạnh nhiều năm qua. Đất nước
Campuchia hoà b́nh, biên giới Tây Nam ổn định.
- Hội nghị là
tiền đề giúp ta thực hiện b́nh thường
hoá quan hệ với Mỹ và các nước phương
Tây, sau đó tiến tới xoá bỏ hoàn toàn bao vây và
cấm vận kinh tế.
- Chấm dứt
chiến tranh không những quân đội ta chấm dứt
đổ máu mà c̣n tạo điều kiện cho ta giảm
quân từ 1,5 triệu xuống c̣n 0,5 triệu, giảm chi
phí quân sự, tập trung nguồn lực xây dựng kinh
tế để nước ta có được vị
thế như ngày nay.
Vậy th́, có thể
gọi Hội nghị Thành Đô là một HIỆP
ĐỊNH HOÀ B̀NH kư kết cho cả ba dân tộc Việt
- Trung- Khmer. Giá trị lịch sử của nó chẳng kém
ǵ hai Hội nghị: Giơ-ne -vơ (1954) và Pa-ri (1973). Nếu
Hiệp định Giơ-ne-vơ chỉ lập lại
hoà b́nh cho nước ta một thời gian ngắn,
Hiệp định Pa-ri chỉ có tác dụng buộc
Mỹ rút quân về nước, chiến tranh vẫn
tiếp tục diễn ra, th́ Hội nghị Thành Đô là
cơ sở kiến tạo hoà b́nh lâu dài, bền vững
cho cả ba nước đến tận bây giờ.”
Suốt mấy
chục năm qua, suốt mấy thế hệ
người Việt bị tuyên giáo cộng sản lừa
dối cho ăn bánh vẽ, nhiều người đă
tỉnh ra, dễ dàng nhận ra ở bài viết Phải
Hiểu Cho Đúng Về Hội Nghị Thành Đô
giọng tuyên giáo, giọng dư luận viên bóp méo sự
thật, tuyên truyền lừa dối, răn dạy
người dân như cô giữ trẻ răn dạy
đám con nít ở lớp mẫu giáo. Nhưng phải
ăn bánh vẽ măi, nhiều người đă thành con
nghiện, thành tín đồ bánh vẽ và Phải Hiểu
Cho Đúng Về Hội Nghị Thành Đô có tới hơn
2 K like, hơn 1,3 K share và tới tấp những lời
tấm tắc “Một bài viết thấu đáo dù anh không
là người trong cuộc . Bài viết đă làm rơ mà trên
hết ta đă thấy kết quả lập lại hoà
b́nh và những bước phát triển như ngày nay ! Một
vị tướng trận mạc trong bốn cuộc
chiến tranh hiểu rất rơ nên đă có những hành
động đúng và đầy trách nhiệm với dân
tộc” Và “Nhờ bài viết của anh mà em hiểu thêm
công lao to lớn của nguyên chủ tịch nước Lê
Đức Anh, ông xứng đáng được nhân dân
cả nước mang ơn và ngưỡng mộ.”
Đến kỉ nguyên
tin học, mạng xă hội ra đời làm cho tuyên giáo
cộng sản không c̣n độc quyền thông tin, không
thể mặc sức dối trá được nữa mà
một dư luận viên cấp phường vẫn nhâng
nháo vào mạng xă hội, trợn trạo bịp bợm và
vẫn có nhiều người háo hức, sung sướng
ăn bánh vẽ cộng sản th́ quá thảm hại. Thảm
hại như chủ tịch hội Nhà Văn Việt Nam
Hữu Thỉnh viết bài tâng bốc thứ thơ
thiền ba xu của nhà thơ dỏm Hoàng Quang Thuận. Thảm
hại như “Nhà báo quốc tế” dỏm Lê Hoàng Anh
Tuấn được hết trường trung học
nọ đến viện nghiên cứu kia rải thảm
đỏ đón rước. Thảm hại đến
mức từ lănh đạo hội nhà báo quốc gia
đến chủ tịch hội nhà báo tỉnh cùng hí
hửng tháp tùng, cùng vênh váo công kênh đưa “nhà báo quốc
tế” dỏm đi khắp nơi lừa bịp.
V́ sự thảm
hại đó, dù hơn tuần sau tôi mới đọc
những lời lừa dối của bài viết Phải
Hiểu Cho Đúng . . . tôi phải viết
những ḍng này.
2. Trước
hết, cuộc đi đêm Thành Đô là chuyện riêng, kín
mít ở cấp chóp bu của đảng cộng sản
Việt Nam. Chuyện riêng của mấy ông Bộ Chính
trị Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê
Đức Anh . . . và mấy ông già cố vấn
Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Vơ Chí Công
. . . . Chuyện riêng của hai đảng Việt
Cộng và Tàu Cộng chứ không phải chuyện của
hai nhà nước. Cơ quan đứng ra lo bảo
đảm kĩ thuật cho chuyến đi đêm lén lút,
tội lỗi này là ban Đối ngoại của
đảng. Bộ Ngoại giao của nhà nước
bị gạt ra ŕa. Những người nắm giữ
vị trí trọng yếu nhất ở bộ Ngoại giao
như Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, Thứ
trưởng Trần Quang Cơ cũng phải ngồi nhà
và chỉ được chứng kiến những
chuyện đă rồi. V́ đớn hèn và ô nhục,
nội dung thỏa thuận Thành Đô năm 1990
đến nay vẫn phải niêm phong kín mít, chưa dám hé ra
một chi tiết nhỏ. Đến những ông bà ủy
viên ban chấp hành trung ương của các khóa từ 1990
đến nay c̣n mù tịt th́ ông cán bộ vô danh những
năm 1980 mới ngơ ngác về bộ Ngoại Giao làm
sao có thể biết “nhiều điều bí mật và
tế nhị phía “hậu trường”.
Hư cấu ra nhân
vật “người bạn thân làm việc ở bộ
Ngoại giao” chỉ để ông dư luân viên mang danh “bác
sĩ”, “nhà thơ, nhà văn” có cớ vẽ ra bức tranh
“Hội Nghị Thành Đô” rực rỡ màu hồng
bằng tṛ lửa bịp sống sượng và cũ rich
của tuyên giáo cộng sản “cả Việt Nam, Trung
Quốc và Campuchia đều được hưởng
lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn
cả là Việt Nam”. .
3. Tháng chín, 1989,
trước cuộc gặp Thành Đô một năm, quân
đội Việt Nam đă hoàn toàn rút hết khỏi
Campuchia, kết thúc mười năm cuộc sa lầy quân
sự đẫm máu ở Campuchia. Tháng chín, 1989,
trước cuộc gặp Thành Đô một năm,
chiến sự ở biên giới Việt Trung cũng hoàn
toàn chấm dứt, kết thúc cuộc chiến tranh
mười năm Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Ngày
đó c̣n làm biên tập ở xưởng phim Quân
đội Nhân dân Việt Nam, tôi đă dẫn một
tổ điện ảnh mang máy quay phin Konvat của Nga
đi quay phim tư liệu quân Việt Nam rút khỏi
Campuchia. Đơn vị lính quân khu Năm rút về
nước có cả mấy người đàn bà Campuchia
vợ lính ôm con theo chồng ngồi trên thùng ô tô giữa
những người lính Việt. Dừng chân ở Đà
Nẵng, mỗi gia đ́nh lính, chồng Việt vợ Miên
được đưa đến ở tạm trong
một gian nhà khách của bộ tư lệnh quận khu
Năm ở băi biển Mỹ Khê. Những thước phim
lịch sử đó nay c̣n trong kho phim tư liệu của
Điện ảnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.
V́ vậy không có
chuyện “Kết quả Hội nghị gồm hai phần
được kư kết:
Phần thứ
nhất: Chấm dứt xung đột biên giới
giữa hai nước, b́nh thường hoá quan hệ
Việt- Trung.
Phần thứ hai
gồm bảy điều khoản về vấn
đề Campuchia. Chủ yếu là: Các bên ngừng bắn,
chấm dứt chiến tranh. Quân đội Việt Nam rút
hết về nước . . .
4. Trước
sự sụp đổ liên hoàn của các nhà nước
cộng sản Liên Xô và Đông Âu, những trái tim xơ
cứng và những cái đầu tăm tối, cuồng
tín giáo điều cộng sản của lănh đạo
đảng cộng sản Việt Nam không biết
đến thân phận đau thương của giống
ṇi Việt Nam trong nô lệ cộng sản, không biết
đến đất nước Việt Nam tan hoang v́
sự tàn phá của ấu trĩ, ngu dốt tham lam cộng
sản, không biết đến tiến tŕnh lịch sử
của loài người đang phẫn nộ chôn vùi cái quái
thai cộng sản vào hố rác lịch sử. Chỉ
biết có đảng cộng sản, hốt hoảng lo
mất ngai vàng vua tập thể, họ liền quên ngay
tội ác của nhà nước cộng sản Trung
Quốc với dân tộc, với lịch sử Việt
Nam, kẻ vừa xua hơn nửa triệu quân tràn qua biên
giới xâm lược Việt Nam, giết hàng chục
vạn dân Việt Nam, kẻ vừa cướp toàn bộ
quần đảo Hoàng Sa và cướp bảy băi đá
trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Họ
ảo tưởng rằng đảng cộng sản Trung
Quốc với gần trăm triệu đảng viên là
một sức mạnh to lớn của lực
lượng cộng sản thế giới, là một cái
cọc vững chắc cho đảng cộng sản
Việt Nam bấu víu trước băo táp nhân dân khi dân
nổi can qua. Với ảo tưởng đó, Lê
Đức Anh đă thốt ra lời: “Mỹ và
phương Tây muốn cơ hội này để xóa
cộng sản. Nó đang xóa ở Đông Âu. Nó tuyên bố
là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rơ ràng nó là
kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải t́m
đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Trần
Quang Cơ. Hồi Ức Và Suy Nghĩ . T88)
Sợ cơn băo nhân dân
loại bỏ cộng sản từ Liên Xô và Đông Âu
sẽ lan tới Việt Nam Nguyễn Văn Linh và Lê
Đức Anh đă hành xử vô nguyên tắc, bỏ qua
bộ máy nhà nước, phớt lờ bộ Ngoại
giao, nhân danh đảng hạ ḿnh trực tiếp thậm
thụt tiếp xúc với đại sứ Trung Quốc
Trương Đức Duy và cùng viên đại sứ
thiết kế ra cuộc đi đêm Thành Đô.
Đang trên
giường bệnh nhưng khi được nghe báo cáo
việc Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh hấp
tấp hạ ḿnh cầu cạnh Trương Đức
Duy, cố vấn Lê Đức Thọ cũng phải
thở dài: “Việc anh Nguyễn Văn Linh và anh Lê
Đức Anh gặp đại sứ Trung Quốc đă
làm cho Trung Quốc cứng lên. Đáng lẽ không nên
gặp” (Trần Quang Cơ. Sách đă dẫn. T77) C̣n cố
vấn Phạm Văn Đồng th́ nói rơ hơn: “Trong
cuộc họp Bộ Chính trị bàn về đàm phán
với Trung Quốc, tôi đă nói tới ba lần là không
được hớ, phải rất thận trọng
với Trung Quốc. Đằng này các anh lại ngửa
bài trước để họ biết hết .
. . Trung Quốc họ nghĩ theo kiểu Đại
Hán của họ và kết quả là họ ép ḿnh. Ngoại
giao là một vũ đài, phải giữ thế, không
phải lúc nào cũng lật hết bài ra. Không thể
đưa ngực ra cho nó đấm” (Trần Quang Cơ. Sách
đă dẫn. T77)
5. Không khi nào v́ đời
sống nhân dân khó khăn do Mỹ cấm vận mà lănh
đạo cộng sản Việt Nam phải vội vă b́nh
thường hóa quan hệ với Trung Quốc để
mở lối thoát cho nền kinh tế Việt Nam và mở
cửa làm ăn cho người dân Việt Nam như sự
dẫn dụ của dư luận viên cấp xă, cấp
phường Tran Thanh Chuong. Với lănh đạo cộng
sản, đất nước chỉ là kho tài nguyên
để họ vơ vét và nhân dân chỉ là bầy nô
lệ để họ sử dụng như người
nông dân sử dụng sức kéo của con trâu. Nhân dân
chỉ là kho sức người để họ bóc
lột và kho máu để họ làm chiến tranh củng cố
và mở rộng lănh thổ thống trị của họ
mà thôi. Lịch sử cai trị của nhà nước
cộng sản Việt Nam và của tất cả nhà
nước cộng sản trên thế giới đă
chứng minh đầy đủ điều đó. Nhà
nước cộng sản Việt Nam vét của, vét máu dân
ngày chiến tranh là “thóc không thiếu một cân, quân không
thiếu một người”, ngày nay là tăng thuế,
tăng giá vô tội vạ móc túi dân, hút máu dân bù vào ngân
khố trống rỗng do làm ăn kém cỏi, thua lỗ và
tham nhũng.
Lịch sử cận
đại của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan
đă khẳng định muốn phát triển kinh tế,
dân giầu, nước mạnh, đất nước hóa
rồng, hóa hổ th́ phải thiết lập mối quan
hệ làm ăn đàng hoàng, văn minh, tin cậy với Mỹ
và thế giới phương Tây, một quan hệ b́nh
đẳng, ṣng phẳng có luật pháp minh bạch và nghiêm
ngặt. C̣n v́ ư thức hệ cộng sản, v́ cái ngai vàng
vua tập thể mà lẻn đi vào lối ṃn ô nhục
của Trần Ích Tắc, Lê Chêu Thống sang cầu
cứu Trung Quốc để giữ ngôi vua tập thể
th́ chỉ giơ cổ ra nhận lấy cái dây xích chư
hầu và rước họa Bắc thuộc về cho
giống ṇi. Nếu làm việc chính đáng v́ dân v́
nước th́ Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh đâu
phải hấp tấp và lén lút tiếp xúc với
Trương Đức Duy sau lưng bộ Ngoại giao
vậy.
6. Sau khi ngừng
đấu súng ở biên giới Việt Trung và sau khi quân
đội Việt Nam rút hết khỏi Campuchia cũng là
khi hệ thống nhà nước cộng sản Liên Xô và
Đông Âu tan ră. T́nh thế đó tạo ra cho hai
đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc hai
mối liên quan lớn. Mối quan tâm của đảng
cộng sản Việt Nam là cần gấp gáp b́nh
thường hóa quan hệ giữa hai nhà nước
Việt Trung để đảng cộng sản Việt
Nam t́m liên minh, t́m sự bảo kê của đảng
cộng sản đàn anh Trung Quốc ḥng tồn tại
trước xu thế của thời đại rũ
bỏ độc tài cộng sản khỏi đời
sống chính trị thế giới. C̣n đảng cộng
sản Trung Quốc lại chỉ quan tâm giành cho Khmer
Đỏ do Trung Quốc nuôi dưỡng đă bị quân
đội Việt Nam đánh cho tan tác vẫn có
được vị trí ngang bằng với ba lực
lượng chính trị khác trong cơ cấu quyền
lực nhà nước Campuchia.
Cuộc đi đêm
Thành Đô tháng chín, 1990 là cuộc giao kèo, đổi chác hai
nội dung trên. V́ đầu óc tối tăm, tâm thế
thấp hèn, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đă
ngửa bài trước khi vào ván bài Thành Đô, đă
bộc lộ sự hốt hoảng lo sợ mất ngai
vàng vua tập thể, bằng mọi giá phải b́nh
thường hóa quan hệ với Trung Quốc để
dựa vào Trung Quốc mà giữ ngai vàng cộng sản. Nguyễn
Văn Linh và Lê Đức Anh đă đưa cộng
sản Trung Quốc lên vị thế cứu tinh đối
với số phận cộng sản Việt Nam. Từ
vị thế cứu tinh đó, cộng sản Trung
Quốc ép đoàn cộng sản Việt Nam đến
Thành Đô do Nguyễn Văn Linh dẫn đầu phải
chấp nhận mọi đ̣i hỏi của họ. Và
cộng sản Việt Nam đă mang độc lập
của đất nước, danh dự của tổ
quốc, đất đai của giang sơn, tự hào
của lịch sử, khí phách của giống ṇi ra đánh
đổi lấy b́nh thường hóa quan hệ Việt
Trung. Cộng sản Việt Nam phải chấp nhận
để Pôn Pốt kẻ thua trận ở vị thế
ngang hàng với Hun Sen người thắng trận trong
cơ cấu quyền lực nhà nước Campuchia.
V́ sự đổi
chác ở Thành Đô ngu xuẩn, nhục nhă như vậy
nên đến nay cộng sản Việt Nam vẫn phải
giấu kín nội dung cuộc đổi chác Thành Đô
như mèo giấu cứt.
Trong đoàn chư
hầu ô nhục đi Thành Đô có Phạm Văn
Đồng, cố vấn Ban Chấp hành trung ương
đảng cộng sản Việt Nam và ông cố vấn
tóc bạc, mắt ḷa phải có người dắt đi
từng bước này phải ngậm ngùi nói về ông
trưởng đoàn chư hầu, Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh: “Đă hớ, đă dại rồi mà
c̣n nói đặt sự nghiệp cách mạng lên trên
hết… Người lănh đạo không nên làm như
vậy. Với Trung Quốc, vừa qua không phải là chúng
ta b́nh thường hóa, mà là chúng ta đă bị “phụ
thuộc hóa” quan hệ (Sách đă dẫn. T93).
C̣n Thứ
trưởng bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ th́ nh́n
nhận về cuộc gặp Thành Đô: “Sở dĩ ta
dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là v́ chính ta
đă tự lừa ta. Ta đă tự tạo ra ảo
tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn
cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững
chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xă
hội thế giới, chống lại hiểm hoạ “diễn
biễn hoà b́nh” của chủ nghĩa đế quốc do
Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó
đă dẫn đến sai lầm Thành Đô” và “V́ quá nôn
nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn
ta đă hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng
rằng thỏa thuận như thế sẽ được
ḷng Bắc Kinh nhưng trái lại thỏa thuận Thành
Đô đă làm chậm việc giải quyết vấn
đề Campuchia và do đó chậm việc b́nh thường
hóa quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế
của ta bị hoen ố.” (Sách đă dẫn. T 94)
Cuộc đổi chác
Thành Đô buộc Việt Nam phụ thuộc vào Trung
Quốc đến mức ngày 5.8.91, giữa cuộc
họp Hội Đồng Bộ Trưởng, Hồng Hà
trưởng ban đối ngoại của đảng
cộng sản cao giọng nhắc nhở cả bộ máy
chính quyền: Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc
các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương
Đức Duy (Đại Sứ Trung Quốc), không cần
qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh’’ (Sách đă
dẫn. T109).
7. Kí văn bản
giao kèo đổi chác Thành Đô, lănh đạo cộng
sản Việt Nam chỉ có hồn cộng sản, hồn
băng nhóm giang hồ cướp quyền con người,
cướp quyền làm chủ đất nước
của người dân, không có hồn Việt Nam, không có
tư thế của lịch sử Việt Nam, của
văn hóa Việt Nam “Như nước Đại Việt
ta từ trước / Vốn xưng nền văn
hiến đă lâu” (Nguyễn Trăi. B́nh Ngô đại cáo). Do
đó đảng cộng sản vừa phải giấu
kín văn bản đổi chác nhục nhă ở Thành Đô
vừa phải tung đội ngũ dư luận viên
đi lừa bịp “Hội nghị (Thành Đô) là kết
quả tất yếu đáp ứng đ̣i hỏi bức
thiết của t́nh thế đất nước ta
thời đó. Nó được tiến hành ṣng phẳng,
vị thế hai bên ngang ngửa, cả Việt Nam, Trung
Quốc và Campuchia đều được hưởng
lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn
cả là Việt Nam.”
Người dân không
được thấy câu chữ nhem nhuốc của
văn bản bán linh hồn cho quỉ ở Thành Đô. Nhưng
người dân thấy rơ thực tế ứng xử
đớn hèn của nhà nước cộng sản
Việt Nam với Trung Quốc từ sau Thành Đô 1990 và
ứng xử đớn hèn đó đă tố cáo sự bán
ḿnh của đảng cộng sản Việt Nam cho
đảng cộng sản Trung Quốc.
Với chính sách phụ
thuộc, nô lệ vào nhà nước cộng sản Trung
Quốc, với thân phận chư hầu, nhà nước
cộng sản Việt Nam đă phản bội cha ông,
phản bội lịch sử Việt Nam kí hiệp
định biên giới 1999 dâng mười lăm ngàn cây
số vuông đất biên cương cho Trung Quốc.
Từ sau 1990 tất
cả bia đá, tượng đồng ghi nhớ
chiến công của quân dân ta trong mười năm 1979 –
1989 chiến đấu chống quân Trung Quôc xâm lược
bị đục bỏ. Bia ghi tội ác của quân Trung
Quốc xâm lược bị xóa sạch. Pháo đài
Đồng Đăng, Lạng Sơn lịch sử,
nơi hàng trăm người dân Việt Nam chạy
giặc ẩn náu đă bị quân Trung Quốc xả
hơi độc, đánh thuốc nổ giết chết
nay ch́m trong lau lách hoang vu quên lăng
Nhà trường không
được dạy học sinh, sinh viên những trang
sử hào hùng của cha ông chống quân của các triều
đại Trung Quốc xâm lược. Người dân
tưởng niệm những người con yêu của
Mẹ Việt Nam đă ngă xuống trong cuộc chiến
đấu giữ nước chống quân Trung Quốc xâm
lược, người dân biểu t́nh chống những
hành động Trung Quốc đang tiến hành xâm
lược Việt Nam đều bị công cụ bạo
lực nhà nước cộng sản Việt Nam đàn áp
dă man.
Từ sau 1990, nhà
nước cộng sản Việt Nam hoàn toàn bỏ
ngỏ biển Việt Nam cho Trung Quốc làm chủ. Quân
đội bảo vệ chủ quyền lănh thổ đă
khoanh tay đứng nh́n những đoàn tàu dân đánh cá
Trung Quốc nhiều như là tre tràn vào biển Việt
Nam, đến nhà nước cộng sản Việt Nam
cũng im lặng coi Trung Quốc làm chủ biển
Việt Nam như là điều b́nh thường,
đương nhiên. Tàu vũ trang Trung Quốc tự do
ngang dọc trên biển Việt Nam, đâm ch́m tàu dân
Việt Nam, giết hại dân Việt Nam cũng chỉ có
người phát ngôn bộ Ngoại giao lên tiếng “quan
ngại” chiếu lệ. Nhà nước Trung Quốc công
bố lệnh cấm dân Việt Nam đánh cá trên biển
Việt Nam, nhà nước cộng sản Việt Nam
cũng câm miệng hến chấp nhận. Chỉ có
hội Nghề cá của dân lên tiếng phản đối
yếu ớt.
Bỏ ngỏ biển
cho Trung Quốc làm chủ biển Đông. Mở rộng cửa đón người Trung Quốc vào tàn phá
đất nước
Việt Nam, đón hàng hóa Trung
Quốc vào giết chết nền công nghiệp sản xuất hàng hóa Việt Nam, đón văn hóa Trung Quốc
vào thiết lập trong tâm hồn người
Việt Nam nền văn hóa chư
hầu. Sách Ṿng Tṛn Bất Tử ghi nhận ư chí chiến đấu của những người lính Việt
Những sĩ quan cao cấp
của quân đội, của công an phải
lần lượt nối nhau sang Trung Quốc ăn cơm Tàu, học sách Tàu, thay
máu Đại Việt bằng máu chư hầu.
Sĩ quan cấp tướng chỉ bộc lộ ḷng yêu
nước, bộc lộ ư chí giữ nước chống quân Trung Quốc xâm lược liền lập tức phải rời quân ngũ như
đại tướng
Đỗ Bá Tỵ.
Nhà nước cộng sản Việt
Với giao kèo Thành Đô
năm 1990, sẽ c̣n nhiều chủ trương, chính sách, nhiều
dự án lớn nhỏ trên đất nước Việt Nam tiếp tục ra đời chỉ v́ lợi
ích của Trung Quốc và gây nguy
khốn đất nước, cho giống ṇi Việt Nam.
15/05/2019
Mục
Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển
điện tử:
hay
www.dcvapt.net
Email: dcvapt@gmail.com
Hiệp Hội Dân Chủ và
Phát Triển Việt