DC&PT -
Thời Sự 2019
Đoàn
tầu Việt Nam và định vị quốc gia
Nguyễn Quang Dy
Trong bài này, tôi
mượn h́nh tượng “đoàn tàu Việt Nam” để
dễ h́nh dung và chia sẻ, với những ẩn ức và
ám ảnh trong tâm thức người Việt. Đă lâu tôi
không đi tầu, nhưng những kỷ niệm khó quên về
tầu hỏa vẫn c̣n đọng lại từ thời
niên thiếu và thời chiến tranh. Nay tôi ngại đi tầu
không phải chỉ v́ nó chạy quá chậm, mà c̣n v́ những
ám ảnh trong tâm thức.
Đoàn tầu Việt Nam đang ở
đâu
Mỗi lần
nghe bài hát “tầu anh qua núi” tôi lại thấy buồn, tuy
bài hát đó có giai điệu vui. Tôi nhớ có lần (cuối
thập niên 1980), đă theo một đoàn làm phim Úc đi từ
Bắc vào Nam để quay phim tài liệu về tầu hỏa.
Tôi vẫn nhớ h́nh ảnh tuyệt đẹp khi đầu
tầu hơi nước hú c̣i và phun khói trắng ḥa vào mây
trời trước khi đoàn tàu trườn ḿnh vượt
đèo Hải Vân.
Từ đó
đến nay, “đoàn tàu Việt Nam” hầu như không có
ǵ thay đổi. Vẫn là những đầu tàu cũ kỹ
ỳ ạch kéo những chiếc toa cũ kỹ lầm
lũi chạy trên tuyến đường sắt chật
hẹp (1,100m). Vẫn là cái barrier chắn đường
thời trước để chặn ḍng chảy đường
bộ cho “tầu anh qua phố”, làm du khách nước ngoài
ngỡ ngàng thích thú như xem bộ phim “Oriental Express”.
H́nh tượng
đó vẫn ám ảnh tâm thức về một đất
nước giàu đẹp nhưng “không chịu phát triển”,
như hoài niệm về câu truyện cho trẻ em thời
trước là “Mít Đặc và Biết Tuốt” (tại bến
“lần sau tầu chạy”). Trong khi “chính phủ kiến tạo”
nói nhiều về công nghệ 4.0, th́ hệ tư duy
(mindset) và hệ quy chiếu (paradigm) của người Việt
vẫn dừng lại ở ngă ba đường.
Từ cuối
thập niên 1990, tuyến đường sắt Hà Nội-Lào
Cai đă có mấy toa “tàu Victoria” chủ yếu để
phục vụ khách nước ngoài của khách sạn Victoria
ở Sapa. Tại sao họ làm được một
đoàn tầu tử tế cho khách hàng của họ, mà
ngành đường sắt Việt Nam sau mấy thập kỷ
vẫn chưa làm được những toa tầu tử
tế như vậy cho người Việt ḿnh? Thật là
vô lư!
Hơn bốn
thập kỷ sau chiến tranh, Việt Nam tuy nhiều tài
nguyên, nhưng khai thác đến cạn kiệt mà vẫn
chưa công nghiệp hóa và hiện đại hóa, vẫn tụt
hậu so với nước láng giềng. Bộ GTVT thừa
nhận Việt Nam chưa làm được cao tốc Bắc-Nam,
mà “chỉ có Trung Quốc làm được”, bất chấp
bài học đau đớn về dự án đường
sắt trên cao Cát Linh-Hà Đông.
Ám ảnh về
“đoàn tàu Việt Nam” là hệ quả của mấy thập
kỷ cải cách kinh tế thị trường (nhưng
què quặt) v́ “định hướng XHCN” (đă lỗi
thời). Đó là một thể chế bất cập
được duy tŕ quá lâu làm triệt tiêu các nguồn lực
tích cực dựa trên hệ giá trị cốt lơi của
dân tộc, nhưng hậu thuẫn cho các nguồn lực
tiêu cực dựa trên lợi ích nhóm “thân hữu” (cronyism).
Thể chế
đó đă sinh ra “một bầy sâu” (theo lời ông Trương
Tấn Sang) đang đua nhau đục khoét và “ăn của
dân không từ một cái ǵ” (theo lời bà Nguyễn Thị
Doan). Chiến dịch chống tham nhũng của TBT-CTN
Nguyễn Phú Trọng tuy đạt được những
kết quả đáng khích lệ, được đa số
người dân ủng hộ, nhưng khó thành công nếu
không giải quyết tận gốc.
Cái gốc
đó là thể chế (như cái vỏ) đă lỗi thời,
ḱm hăm sự phát triển nguồn lực dân tộc (là cái
lơi), cản trở ḍng chảy của lịch sử. Các quốc
gia hưng thịnh hay suy vong đều do các nguyên nhân nội
tại. Sẽ là sai lầm và bi kịch nếu vẫn cố
bám giữ “chủ nghĩa đặc thù” (exceptionalism) để
bào chữa cho sự tŕ trệ bằng tư duy “tiệm tiến”
(gradualism). Sau ba thập kỷ, động lực đổi
mới (ṿng một) đă hết đà, phải đổi
mới (ṿng hai) trước khi quá muộn.
Tại sao phải định vị
quốc gia
Muốn phát
triển, các doanh nghiệp thường phải “định
vị” (positioning) trên thị trường. Các quốc gia
cũng phải định vị (hoặc tái định vị)
nước ḿnh, nhất là khi bàn cờ quốc tế biến
đổi. Mấy năm qua, trật tự thế giới
đă bị đảo lộn đến chóng mặt và khó
lường. Nếu không định vị lại và điều
chỉnh chiến lược, Việt Nam dễ bị mắc
kẹt vào thế “lưỡng nan” (Catch 22).
Hăy thử so
sánh Việt Nam với nước láng giềng Thái Lan (trong
ASEAN). Năm 2012, thu nhập đổ đầu người
(per capita) của Việt Nam
là US$ 1.373, bằng Thái Lan năm 1981 (tụt hậu 30
năm). Theo dự đoán của IMF, đến năm 2019, thu nhập per capita của Việt Nam sẽ là US$ 2.473, bằng
Thái Lan năm 1985 (tụt hậu 34 năm). Việt Nam
đă từng tuyên bố đến năm 2020 sẽ là một
nước công nghiệp, nhưng đến nay vẫn chưa
công nghiệp hóa, năng suất lao động vào loại
thấp nhất khu vực.
Hàn Quốc là
một nước Đông Á, cũng bị thuộc địa,
chiến tranh, và chia cắt Bắc-Nam, nhưng sau ba thập
kỷ (1960-1990) đă vươn lên thành cường quốc.
GDP per capita của
Hàn quốc (năm 1960) là US$ 155, trong khi của Việt
Hàn Quốc là một nước độc
tài, nhưng để trở thành cường quốc, họ
phải chuyển sang thể chế dân chủ (theo quy luật tất yếu). Tuy
cùng vạch xuất phát tương tự, nhưng Hàn Quốc
nay đă giàu mạnh. Việt
Trong bốn thập kỷ thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, tuy 95% người dân mù chữ, nhưng họ đă xây dựng được đường sắt, đường bộ, cầu cống, cảng biển, sân bay, thành phố Hà Nội và Sài g̣n (như “ḥn ngọc Viễn Đông”). Nay với tŕnh độ công nghệ cao hơn gấp nhiều lần, tuy 95% người dân biết chữ, nhưng hệ thống đường sắt vẫn kém hơn thời Pháp thuộc.
Hệ thống đường bộ, cầu cống, cảng biển, tuy có mở rộng, nhưng cơi nới và chắp vá. Đường phố Hà Nội nay mấp mô, lồi lơm, đầy “ổ trâu”, như đường nông thôn. Các nắp cống đủ kiểu lồi lên, tụt xuống thành những cái bẫy như “thập diện mai phục’. Vỉa hè năm nào cũng bị đào bới lát lại, để nhóm lợi ích kiếm chác như cái mỏ lộ thiên. Điều đó cứ hồn nhiên lặp đi lặp lại như chuyện tất nhiên (hay “new normal”). Lạ thay, chẳng thấy ai chịu trách nhiệm.
Không phải do thiếu kinh phí hay thiếu công nghệ, mà thể chế độc quyền đă làm cho ngành giao thông công chính và điện/nước trở thành nhóm lợi ích “không chịu phát triển” và bị phân liệt (dysfunctional). H́nh ảnh những cột điện với các búi dây điện nhằng nhịt như mạng nhện đă làm Bill Gates ngỡ ngàng, trong khi đường ống nước Sông Đà vỡ tới 21 lần.
Khi đă ngoài 40 tuổi (giai
đoạn trưởng thành) người ta thường
không nhầm lẫn nữa. Theo khoa học
tổ chức, bốn thập kỷ là quá đủ để
mỗi công ty hay mỗi quốc gia trưởng thành, với
ít nhất ba thế hệ kế tục, đủ thời
gian cho các giá trị cốt lơi của dân tộc định
h́nh. Nhưng ngành giáo dục Việt
Đă hơn bốn thập kỷ
sau chiến tranh, Việt
Chiến tranh lồng ghép
Hiện nay, Trung Quốc đang tiến hành một cuộc “chiến tranh lồng ghép” (hybrid warfare) là khái niệm mới được Bộ Quốc pḥng Mỹ đề cập đến từ năm 2008. Đó là một cuộc chiến tranh không dùng quân đội và vũ khí, mà sử dụng những biện pháp “phi vũ trang” để triệt hạ toàn diện các mục tiêu của đối phương. Theo Wikipedia, “Hybrid warfare” lồng ghép chiến tranh thông thường với những biện pháp không thông thường khác như chiến tranh mạng (cyberwarfare), pháp lư (lawfare), tin vịt (fake news), và can thiệp vào bầu cử, v.v…
Nói cách khác, đó là binh pháp Tôn Tử (không đánh mà thắng) vận dụng linh hoạt nhiều biện pháp trong “vùng sám” (grey area), để phá hoại không gian sinh tồn, cơ sở hạ tầng, và làm biến đổi hệ giá trị cốt lơi của đối phương. Trung Quốc có thể cho vay dài hạn để lũng đoạn kinh tế. Việt Jet và Bamboo Airways lấy tiền đâu để mua 110 máy bay Boeing?
Việt
Theo Kiểm toán Nhà nước (2018), dự án đường sắt trên cao Cát Linh-Hà Đông, vốn đầu tư là 8.770 tỷ VNĐ, đă bị đội vốn lên 18.000 tỷ VNĐ (tăng 205%), dự kiến hoàn thành 6/2014 và chính thức khai thác thương mại 6/2015 (nay chậm tiến độ 4 năm). Nếu thu mỗi ngày 100 triệu VNĐ (theo bộ GTVT) th́ phải mất 10.000 năm mới thu hồi được vốn. Theo NHK, đây là “tuyến đường tai tiếng nhất thế giới” (vừa chậm, vừa xấu, vừa không an toàn).
Nhưng bộ GTVT vẫn muốn Trung Quốc
làm đường Cao tốc Bắc-Nam, một dự án chiến lược quan trọng hơn cả
ba đặc khu. Trung Quốc muốn dùng cái bẫy ư thức
hệ để buộc chặt Việt
Theo Minxin
Pei, trật tự thời “hậu Thiên An Môn” đă chấm
dứt từ năm 2012 khi Tập Cận B́nh lên cầm quyền,
và từng bước thay đổi những nguyên tắc mà
Đặng Tiểu B́nh đă xác lập. Trung
Quốc đă tăng cường “chế độ tư
bản nhà nước” (state capitalism), và triển khai các tham
vọng địa chính trị trên toàn cầu, xô đẩy
Mỹ và phương Tây phải chống lại họ.
(The Lasting Tragedy of
Henry Paulson (cựu bộ trưởng tài chính) kêu gọi Trung Quốc và Mỹ thỏa thuận về “các dự án hữu h́nh để xây dựng ḷng tin”, là điều quan trọng lúc này. (America and China must manage their rivalry or risk disaster, Economist, May 16, 2019). Nhưng David Dollar (Viện Brookings) cho rằng cách đây không lâu Mỹ và Trung Quốc đa cố gắng làm giảm căng thằng bằng cách hứa hẹn mở rộng thương mại, “nhưng nay đă quá muộn để làm việc đó”.
Theo Hal Brands (Johns Hopkins) và Charles
Edel (
Thay lời kết
“Đoàn tầu Việt
Muốn định vị quốc gia, phải
“kiến tạo” và đổi mới “ṿng hai”, với khẩu
hiệu “đổi mới hay là chết” (như lúc đổi
mới “ṿng một”). Để đổi mới “ṿng hai”,
phải đổi mới thể chế toàn diện để
thoát khỏi cái “ṿng kim cô” về ư thức
hệ đă ḱm hăm và làm đất nước tụt hậu.
Tại đối thoại Shangri-La (
Cuộc chiến tranh thương
mại Mỹ-Trung thực chất là một cuộc chiến
tranh lạnh kiểu mới, như thế cờ vây của
Mỹ với Trung Quốc. Đó là một cơ may lớn
cho Việt
NQD. 6/5/2019
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 6-6-19
Trích: Viet-studies 06.06.19
Mục
Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển
điện tử:
hay
www.dcvapt.net
Email: dcvapt@gmail.com
Hiệp Hội Dân Chủ và
Phát Triển Việt