DC&PT -
Thời Sự 2019
Nguyễn Đ́nh Cống
1- Giới thiệu
Ông Nhị Lê, Phó tổng Biên
tập TCCS, vừa công bố bài “Cuộc đấu tranh tư tưởng, lư
luận tất yếu, lâu dài và không khoan nhượng
hiện nay”. Bài khá
dài, khoảng 7.000 chữ, tưởng dùng đao to búa
lớn, xem kỹ mới thấy cũng chỉ “chém gió” và
vung văi một số độc hại. Bài gồm 3
đoạn chính, tóm lược như sau:
Đoạn 1:
Ảo tưởng, buông lơi hay tự huyễn hoặc
ḿnh… nhất định thất bại.
Cần xây dựng thống nhất tư
tưởng, không mơ hồ chung
sống giữa các tư tưởng, không buông tay chống
lại kẻ thù tư tưởng. Mơ hồ hay buông
lỏng đấu tranh sẽ thất bại.
Đoạn 2:
Những vấn đề cốt tử trong cuộc
đấu tranh.
Bọn thù địch tập trung vào 8
vấn đề: 1- Công phá nền tảng chính trị, ư
thức hệ ; 2- Bôi nhọ xuyên tạc
thể chế chính trị. 3- Tung hỏa mù về
đảng trị; 4- Chia rẽ dân với Đảng; 5-
Khoét sâu vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền. 6-
Ngụy tạo mâu thuẫn giữa lănh đạo; 7- Phá
hoại đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ; 8- Du nhập các trào lưu
tư tưởng lạ, làm băng hoại lư luận
của chúng ta từ nền tảng.
Đoạn 3:
Cần làm ǵ và làm như thế nào.
Phải có một cương
lĩnh. Mỗi
đảng viên phải trở thành nhà tư tưởng.
Chấm dứt t́nh trạng “Người có
tư tưởng th́ không có quyền, người có
quyền lại không có tầm tư tưởng”. Xóa bỏ t́nh trạng những kẻ kém
đạo đức đi rao giảng tư tưởng,
xóa bỏ a dua tư tưởng, lư luận. Tiếp
tục kiến tạo một đội ngũ
chiến lược gia tư tưởng. Tổng soát xét,
tiếp tục đổi mới toàn diện và căn
bản hệ thống tổ chức, cơ chế vận
hành và thể chế về công tác tư
tưởng, lư luận chính trị.
Ư kiến kết luận: Con đường xă hội chủ
nghĩa mà chúng ta đi, không ǵ lay chuyển được…
Và, dù cho kẻ thù điên cuồng công kích, phá hoại,
Đảng ta, tiếp tục tiến lên, nhịp
bước cùng thời đại… Không ǵ
cản nổi.
Tôi gọi A và B là hai bên
có quan điểm khác nhau về tư tưởng (TT).
A- Bên Đảng, đại diện là ông
Nhị Lê và các đồng chí.
B- Bên phản biện, là đối
tượng của A, bị cáo buộc chống
Đảng, tự chuyển biến.
2- B́nh luận
Xét trong toàn bài, ông Nhị Lê nêu
được một số thực tế đúng (người
có TT không có quyền, người có quyền không có TT,…
kẻ kém đạo đức đi rao giảng TT,… c̣n
nhiều kẻ a dua…), tŕnh bày một số lư luận
hợp lư (không thể giải quyết những lỗi
lầm TT chính trị bằng thứ tư duy đă
đẻ ra nó,…). Thế nhưng khá
nhiều chỗ ông phạm phải ngụy biện và gieo
rắc độc hại.
Trước hết về
nền tảng chính trị, ư thức hệ. Nhị Lê quyết tâm bảo vệ
chủ nghĩa Mác Lê (CNML), bảo vệ ư thức hệ
CS. Ông hoàn toàn có quyền đó, ông sẽ là nhà tư
tưởng chân chính, nhà khoa học trung thực khi mà
bằng cả trí tuệ và trái tim ông hoàn toàn tin vào nhận
thức và t́nh cảm của ḿnh. C̣n không, ông sẽ là
một kẻ bịp bợm, thiếu trung thực, nếu
ông không tin hoàn toàn vào CNML mà cũng chỉ là a dua về
tư tưởng và lư luận như phần đông các trí
thức của Đảng. (Chuyện CNML đúng sai như
thế nào sẽ bàn lúc khác).
Về ư: Cần thống nhất TT. Đối với các ĐCS đây là điều
thiêng liêng, bắt buộc. Nghe qua th́
thấy đúng, nhưng thực chất nó là xiềng xích.
Sự thống nhất TT thực chất là áp đặt ư
đồ của lănh đạo, bắt mọi
người theo. Nhân
loại tiến bộ không cần sự thống nhất
đó. V́ cần thống nhất TT mà
trong đấu tranh vũ trang CS luôn t́m cách tiêu diệt
những người bất đồng chính kiến.
C̣n trong ḥa b́nh, CS luôn xem họ là thù
địch. Việc làm như thế
không chính đáng, gây ra nhiều hận thù không nên có.
Về đối tượng: Khi A xem B là đối tượng để
đấu tranh, th́ A chưa thể hiện được
phương châm: “Biết ḿnh, biết người”.
A không tự biết ḿnh v́ số đông
chỉ học được một vài nội dung của
CNML rồi cứ tưởng đă là trí thức lớn,
họ chưa thể nào đạt được tŕnh
độ cần thiết mà cứ tưởng ḿnh là
triết gia, là chính trị gia. Một số
ít tuy có tham khảo được các nguồn trí tuệ
khác nhau của thế giới, nhưng v́ đă bị
nhồi sọ, bị tẩy năo, đầu óc trở thành
xơ cứng nên chỉ biết bảo thủ, giáo điều.
Trí thức của Đảng phần lớn chỉ
tụ họp với nhau, ca tụng nhau trong các nơi
hội họp, ít người dám xông pha
thực tế, hầu như chưa có ai dám công khai
đối thoại với B (kiểu Trần Đức
Thảo đối thoại với Jean Paul Sartre).
Một số nguyên là trí
thức của Đảng, sau khi biết rơ tác hại
của CNML đă từ bỏ Đảng, trở thành
người “Tự chuyển hóa”. Số này thuộc loại
tự biết ḿnh, không ở trong A.
A không biết người ở chỗ
chỉ biết chụp mũ, vu cáo B là thế lực thù
địch, phản động, chống Đảng, thoái
hóa biến chất, muốn lật đổ chế
độ, … mà không biết điều tra, t́m hiểu
bản chất của B là như thế nào.
Đă có bao giờ ĐCSVN đặt
vấn đề nghiên cứu thật sự khoa học
những con người bị cho là “chống đảng”
như Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh
Tường, Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Trần Xuân
Bách, Lê Hiếu Đằng, Tống Văn Công, Hà sĩ Phu,
Tương Lai, Nguyễn Trung, Chu Hảo, Nguyên Ngọc,
Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Đ́nh
Cống và hàng vạn người khác v.v….
Phải t́m cho được mục
đích của họ, tinh thần của họ, chỉ ra
được ai trong số họ đă bị bọn
phản động mua chuộc, lôi kéo, ai trong số họ
chạy theo cuộc sống vinh thân ph́
gia. Không, không có ai bị mua chuôc, không có ai lo
vinh thân ph́ gia cả. Thế th́, v́ cái ǵ mà họ phê
phán CNML, họ phản biện Đảng. V́ họ yêu
nước thương dân, v́ họ có trí tuệ và dũng
cảm, v́ họ không cam tâm làm nô lệ cho một ư thức
hệ lỗi thời, làm vịt, làm cừu, làm sáo,
vẹt. Xin ghi nhớ và ngẫm nghĩ câu sau: “Khen nịnh
ta là kẻ thù, chỉ ra cái sai và phê phán là thầy ta”.
Phải chăng A không
cần biết bản chất của B, chỉ cần to
mồm vu cáo thế lực thù địch là
được. Đó là sự đánh
lừa. Có thể đánh lừa số
đông trong thời gian ngắn, c̣n về lâu dài sẽ
bị vạch trần.
Về 8 vấn đề
cốt tử trong cuộc đấu tranh, Nhị Lê
chỉ viết đúng vấn đề thứ nhất
(công phá nền chính trị, ư thức hệ). Bảy vấn đề c̣n
lại đă bị tŕnh bày lệch lạc. Thí dụ:
Không phải bôi nhọ xuyên tạc thể chế chính
trị mà là vạch trần, nói lên sự thật về nó.
Không phải tung hỏa mù về
đảng trị mà chỉ ra đúng bản chất
của độc tài. Không phải ngụy
tạo mâu thuẫn giữa lănh đạo mà phơi bày nó ra
cho mọi người thấy. Không phá
hoại đường lối đối ngoại mà
vạch ra các sai lầm của đường lối
đó. Sự băng hoại lư luận của chúng ta
từ nền tảng không phải do du nhập các trào
lưu tư tưởng lạ mà chính là trong lư luận
ấy đă chứa đầy độc hại v.v…
Thật ra, B c̣n lên án
ĐCS nhiều vấn đề quan trọng nữa,
nhưng Nhị Lê hoặc không biết hoặc cố
giấu đi. Đó là tội làm xung kích và lệ thuộc
vào Liên xô và Trung cộng, là quá đề cao hận thù giai
cấp và kiêu ngạo CS mà không thật tâm trong ḥa hợp dân
tộc, là do kém trí tuệ và bị lệ thuộc mà thực
hành những chủ trương quá sai lầm như
cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp,
cải tạo công thương nghiệp, phát triển kinh
tế quá nóng vội, làm hủy hoại tài nguyên, môi
trường, là việc hạn chế đội ngũ
tinh hoa của dân tộc, là việc tạo ra các nhóm lợi
ích, làm giàu trên sự cướp đoạt, tạo ra
nhiều dân oan v.v…
3- So sánh lực lượng
Trong tương quan giữa A
và B, sức mạnh vật chất thật sự lệch
về A, nhưng thế tiến công thuộc B.
Bên A có lực lượng quá hùng hậu.
Có nền giáo dục từ mẫu giáo đến tiến
sĩ, có các trường chính trị dày đặc, có
hệ thống tuyên huấn khắp nơi, có các đoàn
thể chính trị hỗ trợ (lại có Hội Cờ
đỏ, lực lượng AK 47…), có trên 800 tờ báo, có
phát thanh, truyền h́nh, có ṭa án, nhà tù, có lực lượng
vũ trang tiếp sức…
Bên B chủ yếu là các cá nhân đơn
lẻ, một vài tổ chức xă hội dân sự yếu
ớt, không có báo chí công khai, chủ yếu nhờ hệ
thống Internet, nhưng thỉnh thoảng bị chặn,
bị phá. Hoạt động của B bị
ngăn cấm đủ đường, bị vu cáo,
bị khủng bố, bị bắt bớ giam cầm
đủ kiểu.
Thế mà B không sợ A, ngược
lại A rất ngại đối
thoại trực tiếp với B. V́ sao vậy? V́ B tự
tin vào chính nghĩa của ḿnh, c̣n A th́, một số ít c̣n
ngu tín, ngu trung, không biết phân biệt đúng sai, hay
dở, phần lớn chỉ hung hăng ngoài mồm, thâm
tâm đă ruỗng nát, chỉ hung hăng trong tổ chức
mà thôi.
Xem xét cuộc đấu A/B
tôi liên tưởng đến 2 việc. Việc thứ nhất là
phong trào CS ở VN trước năm 1945. Lúc đó lực lượng đàn áp của chính
quyền khá mạnh, những chiến sĩ CS bị truy
đuổi, bị khủng bố đủ kiểu,
nhưng họ đă thành công. Đó là
nhờ, vào lúc ấy CS có được chính nghĩa,
được ḷng dân.
Việc thứ hai là trận chiến Vơ
Ṭng đánh lại bọn tay sai của Tưởng Môn
Thần. Vơ Ṭng, chân bị xiềng, tay bị xích, cổ
mang gông, một ḿnh đánh tan bọn tay sai, nhiều
đứa có vơ nghệ, được trang bị đao
kiếm tốt. Tạm bỏ qua khía cạnh
hận thù, tàn bạo, chỉ xét đến ư nghĩa tâm lư
trong chuyện này. Bọn tay sai tuy đông, trang bị
tốt, khi bắt đầu rất hung hăng, nhưng
khi lâm trận thiếu tự tin, bị hoảng sợ
trước sức mạnh chính nghĩa nên đă bị
đánh bại. Tưởng Môn Thần và lũ
tay sai khi ra tay, nghĩ rằng sẽ dễ dàng thắng
được Vơ Ṭng, nhưng không ngờ…
4- Cần làm ǵ?
Nhị Lê định vạch ra con
đường đấu tranh TT cho toàn Đảng.
Những biện pháp được cóp nhặt lại
từ đâu đó hoặc vừa được nghĩ
ra, nhưng xác suất thực hiện được
rất thấp, phần lớn chỉ kể ra cho có
việc mà thôi. Và nói chung, đảng nắm chính quyền
không cần đấu tranh TT với thế lực
phản biện, nên những biện pháp mà Nhị Lê
vạch ra, nếu cố mà thực hiện th́ mang lại
tai họa, lăng phí hơn là có ích lợi thiết thực.
Điều hết sức quan trọng mà
Nhị Lê đă không thấy, vô t́nh hoặc cố ư bỏ
qua là t́m ra cho thật đúng nguyên nhân nào đă gây ra mâu
thuẫn về TT giữa A và B trong khi cả 2 bên
đều tự cho ḿnh yêu nước, v́ quyền lợi
của nhân dân. Phải chăng B đă
thấy rơ những sai lầm, những dối trá, lừa
bịp của Đảng nắm chính quyền. Trong
lúc A cố sức che giấu những
việc này, mà B lại vạch ra cho mọi người
thấy. Lại nữa, hăy nh́n rộng ra, trên
thế giới, có nơi nào đảng cầm quyền
phải đấu tranh TT hay không. Chỉ có nhân dân theo phe này hoặc phe kia chủ yếu
để chọn người khi bầu cử. Hầu như ngoài VN ra không có nơi nào đảng
cầm quyền đề cao việc đấu tranh TT.
Đấu tranh, đặc
biệt là đấu tranh TT, không phải là việc của
đảng cầm quyền, mà nếu có, nếu cần là
việc của dân, của đảng đối lập,
nghĩa là từ một phía.
Không phải đấu tranh theo kiểu
thông thường mà là phê phán, chỉ trích, đ̣i thay
đổi. C̣n đảng cầm quyền lo
mà sửa sai, lo mà thay đổi cho hợp ḷng dân,
để c̣n được dân bầu trong dịp sắp
tới. C̣n nếu dân hoặc đối
lập phạm pháp th́ chính quyền cứ bắt, đem
xét xử ở ṭa án. Chính quyền không
đấu tranh TT.
Chưa hề thấy
đảng cầm quyền nào đặt vấn
để đấu tranh TT với dân hoặc với các
đảng đối lập.
Trong một số công việc, dù bị
chỉ trích, bị phê phán, nhưng nếu họ thấy
ḿnh đúng th́ cứ tiếp tục, sự thật sẽ
trả lời cho cử tri. Khi họ
thấy chỉ trích, phê phán là đúng th́ họ sửa sai,
cải cách và rồi cử tri sẽ thấy ra. Đó là những việc làm thiết thực
chứ không phải đấu tranh tư tưởng.
Nếu vậy th́ những biện pháp do
Nhị Lê đưa ra chỉ là đồ tầm phào,
phải chăng là kết quả tư duy của một
trí tuệ xơ cứng, không cần bàn đến.
Vậy giữa A và B nên
làm ǵ? Điều này tùy thuộc vào thiện
chí cả 2 bên. Khi cả 2 bên đều có thiện chí
th́ hay nhất là đối thoại. Mục đích chính
của đối thoại là mỗi bên trực tiếp nêu
ra các nhận thức và lư lẽ của ḿnh, tiếp
nhận được cái hay, cái đúng của bên kia (mà trước đây bị hiểu
nhầm hoặc không biết), là nhận ra được
cái sai, cái nhầm của ḿnh do bên kia vạch ra. Từ
đó mỗi bên tự đánh giá lại ḿnh và chọn con
đường thích hợp để tiếp tục.
Đối thoại công khai c̣n giúp cho bên thứ ba (trung gian)
nhận biết rơ quan điểm, ưu nhược
điểm của A và B để
quyết định ủng hộ bên nào. Không
nên đặt mục đích của đối thoại là
hơn thua, thắng bại. Càng không
được dùng các thủ đoạn đê hèn
để áp đảo đối phương. Phải xem đối thoại là hoạt
động khoa học chứ không phải chính trị,
không phải để làm tuyên truyền.
Trong môi trường tự do ngôn luận,
tự do báo chí th́ có thể chỉ cần đối
thoại trên báo. Chỉ khi không thể
đối thoại trên báo mới cần tổ chức
đối thoại trực tiếp. Tốt nhất
là đối thoại công khai, nhưng do yêu cầu của
một bên có thể đối thoại kín.
Ở VN hiện nay, nếu
quả thật ĐCS có thiện chí th́ nên giao và khuyến
khích một số đơn vị tổ chức
đối thoại. Đó
có thể là Hội đồng Lư luận, Ban Tuyên giáo,
Viện Hàn lâm, các trường cao cấp lư luận, chính
trị, Tạp chí cộng sản v.v…
Không phải đấu tranh
mà là đối thoại, đó mới chính là việc làm
khôn ngoan, nhưng chỉ có người thiện chí mới
thực hiện tốt được.
Trích:
Tiếng dân 31.05.19
Mục
Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển
điện tử:
hay
www.dcvapt.net
Email: dcvapt@gmail.com
Hiệp Hội Dân Chủ và
Phát Triển Việt