DC&PT -
Thời Sự 2019
Trương Xuân Danh
Đại hội Đại
biểu Toàn quốc của Đảng Cộng sản
Việt Nam được tổ chức Năm năm
một lần, nó được ví như một ngọn
hải đăng của hệ thống chính trị
một Đảng tại Việt Nam. Mỗi lần
Đại hội, Đảng lại nỗ lực “tŕnh
làng” một thế hệ lănh đạo mới chất
lượng mang đậm hàm ư “đổi mới”. Kể
từ những ngày đầu năm trước Đại
Hội cho đến những Hội nghị Trung ương
cuối cùng trước khi “chốt” các nhân vật ở
tầng cao nhất, chủ đề nhân sự luôn sôi
động, thu hút được sự chú ư đặc
biệt của dư luận.
Có
thể c̣n quá sớm để đưa ra các nhận
định hay dự đoán về giàn lănh đạo
chủ chốt mới tại Đại hội
Đảng XIII, (dự kiến diễn ra vào tháng 1/2021).
Nhưng ngay từ bây giờ chúng ta có thể dựa trên các
dữ liệu “cứng” như các quy định “thành
văn” được Đảng ban hành về lựa chọn
nhân sự, cấu trúc hệ thống lựa chọn
từ trên xuống theo truyền thống vẫn c̣n ổn
định, và cuối cùng là các quy ước “bất thành
văn” để đưa ra những phân tích, phán đoán
cơ bản.
Không
thể phủ nhận rằng các Đại hội kể
từ hai thập niên trở lại đây sự dân
chủ trong Đảng đă được gia tăng
mạnh mẽ, đặc biệt đối với
vấn đề chuẩn bị nhân sự chủ chốt
cho mỗi ḱ Đại hội. Các quy
định, tiêu chí, tiêu chuẩn về các vị trí nhân
sự chủ chốt của Đảng được
ban hành chi tiết. Các thông tin về nhân
sự chủ chốt, quy tŕnh bỏ phiếu đều
được công khai tối đa. Đó
sẽ là những yếu tố quan trọng để các
phân tích và phán đoán trở nên chất lượng hơn.
Bộ Chính
trị và ba nhóm thế hệ
Bộ
chính trị Đại hội khóa XII có 19 người
nhưng hiện nay chỉ c̣n 16 Ủy viên làm việc. Theo các quy
định về độ tuổi, chúng tôi tạm
thời chia làm ba nhóm.
Nhóm thứ Nhất là những người quá tuổi tái
cử Ủy viên Bộ Chính trị theo
quy định, và phải rời vị trí sau Đại
hội XIII (trên 65 tuổi vào ngày bầu cử Đại
hội), tạm gọi là nhóm “Bộ Tám” bao gồm Tổng
bí thư, Chủ tịch nước và 7 người sinh
vào những năm 1953, 1954, 1955. Cụ thể, nhóm này
gồm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng (SN
1944), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (SN 1954), bà
Nguyễn Thị Kim Ngân Chủ tịch Quốc hội (SN
1954), ông Trần Quốc Vượng, Thường trực
Ban bí thư, (SN 1953), bà Ṭng Thị Phóng, phó Chủ tịch
thường trực Quốc hội (SN 1954), ông
Trương Ḥa B́nh Phó Thủ tướng thường
trực (SN 1955), ông Ngô Xuân Lịch Bộ trưởng
Quốc pḥng (1954), và ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư TP
HCM (SN 1953).
Như
vậy “Bộ Tám” về nguyên tắc sẽ không tái
cử Đại hội khóa XIII (chiếm 50% số
lượng Ủy viên Bộ chính trị hiện nay)
tương đối phù hợp với nguyên tắc
kế cận.
Nhóm
thứ Hai gồm Sáu Ủy viên Bộ Chính trị, là nhóm
theo quy định được cơ cấu tái cử,
(dưới 65 tuổi vào ngày bầu cử Đại
hội XIII) sinh vào các năm 1957, 1958, 1959 tạm gọi là
nhóm “Bộ Sáu”. Cụ thể bao gồm, ông Phạm Minh
Chính, trưởng ban Tổ chức TƯ (SN 1958), bà
Trương Thị Mai, trưởng ban Dân vận (SN 1958),
ông Phạm B́nh Minh, Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng Ngoại giao (SN 1959), ông Vương Đ́nh
Huệ, Phó Thủ tướng Chính phủ (SN 1957), ông Tô Lâm
Bộ trưởng Công an (SN 1957), ông Hoàng Trung Hải, Bí thư
Hà Nội (SN 1959).
Nhóm
thứ Ba là nhóm sinh từ năm 1961 trở về sau,
tạm gọi là “Nhóm 2026”, tức là nhóm không những tái
cử ở nhiệm ḱ Đại hội XIII, mà c̣n
đủ tuổi để tái cử vào nhiệm ḱ
Đại hội XIV (2026), bao gồm hai ông là Vơ Văn
Thưởng trưởng ban Tuyên giáo TƯ (SN 1970) và ông
Nguyễn Văn B́nh, (SN 1961) trưởng ban Kinh tế
TƯ.
Ai sẽ là
Tổng Bí thư?
Trong
trường hợp Tổng Bí thư Chủ tịch
nước Nguyễn Phú Trọng không tái cử Đại
hội XIII, chúng ta bắt đầu tiến hành “diễn
dịch” của Quy định 90-QĐ/TW về “Tiêu
chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc
diện Ban chấp hành TƯ, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư quản lí” được ban hành ngày 4.8.2017.
Đoạn quy định chức danh Tổng Bí thư
ngoài các tiêu chí chung có một điều kiện đặc
biệt, ứng cử viên phải “có năng lực lănh
đạo, điều hành Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư”. Trong các phiên họp của
Ban chấp hành TƯ hiện nay ngoài Tổng Bí thư
chỉ có Ba chức danh là Thủ tướng, Chủ
tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, và
Thường trực Ban bí thư được phép
ngồi Chủ tọa và điều hành phiên họp.
Trong
lịch sử và theo truyền thống kể từ
thời Tổng bí thư Lê Duẩn tại Đại
hội VI (1986), các nhân vật phải nắm giữ vị
trí từ Thường trực ban bí thư trở lên cho
đến các vị trí cao nhất mới có khả năng
kế cận trở thành Tổng bí Thư.
Cụ thể ở đây, tại Đại hội VI
(1986) là ông Nguyễn Văn Linh, trước đó ông là
Thường trực Ban bí thư, Đại hội VII
(1991) ông Đỗ Mười, trước đó là Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng
(tương đương Thủ tướng hiện
nay), Đại hội VIII (1996) ông Đỗ Mười
tiếp tục tái cử. Tại Hội nghị TƯ tháng
12/1997, Ban Chấp hành T.Ư đă bầu ông Lê Khả Phiêu
làm Tổng bí thư, ông Lê Khả Phiêu lúc đó là
Thường Vụ Bộ chính trị, một trong bốn
vị trí cao nhất, sau Tổng bí thư Đỗ
Mười. Đại hội IX (2001), là ông
Nông Đức Mạnh, trước đó ông là Chủ
tịch Quốc hội, Đại hội X (2006) ông Nông
Đức Mạnh tiếp tục tái cử.
Đại hội XI (2011) là ông Nguyễn Phú Trọng, ông lúc
đó là Chủ tịch Quốc hội, Đại hội
XII (2016), ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục tái cử.
Với
Quy định về chức danh Tổng Bí thư, và theo
lịch sử lựa chọn các vị trí quyền lực
nhất từ trên xuống được “truyền
thống hóa” kể từ thời Tổng bí thư Lê
Duẩn, th́ hiện nay các ông Nguyễn Xuân Phúc, bà Nguyễn
Thị Kim Ngân, và ông Trần Quốc Vượng hiện
sẽ có nhiều lợi thế.
Tuy
nhiên trong ba người, th́ bà Nguyễn Thị Kim Ngân có
vẻ như không được truyền thống hay
lịch sử “ưu ái”, v́ trong lịch sử cũng
như theo truyền thống Đảng chưa có Tổng
bí thư nào là nữ. Ngoài ra Tổng bí thư
qua tất cả các thời ḱ cũng đều là
người miền Trung và miền Bắc.
Xét
trên nhưng quy ước bất thành văn đó th́
hiện nay mọi cặp mắt đang đổ dồn
về bộ đôi hai ông Nguyễn Xuân Phúc và ông Trần
Quốc Vượng.
Với
các tiêu chí, “đă kinh qua và hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ ở chức danh bí thư tỉnh ủy, thành
ủy hoặc trưởng ban, bộ, ngành Trung
ương; tham gia Bộ Chính trị trọn một
nhiệm kỳ trở lên (trường hợp đặc
biệt do Ban Chấp hành Trung ương quyết
định), cho thấy việc quy định ứng
cử viên Tổng Bí thư phải “đi địa
phương” hay tham gia trọn một nhiệm ḱ Bộ
Chính trị đă không c̣n “cứng” như trước.
Nhóm “Tứ
trụ” và ẩn số “miền
Việc
Đảng chưa có chủ tương nhất thể hóa
hai chức danh Tổng Bí thư và
Chủ tịch nước, nên đến Đại
hội XIII, khả năng cao chúng ta lại chứng
kiến sự quay lại của cấu trúc bốn
chức danh chủ chốt (thường gọi là “Tứ
trụ”).
Vậy những ai có khả năng tiến đến
những chiếc ghế c̣n lại trong “Tứ trụ” bao
gồm Chủ tịch Nước, Thủ tướng
Chính phủ và Chủ tịch Quốc hội.
Quy
định 90-QĐ/TW đối với chức danh
Chủ tịch Nước đều có các tiêu chí chung cụ thể bao gồm uy tín
(được hiểu là không bị các kỉ luật
về Đảng, hoạc mức độ tín nhiệm
cao trong Bộ chính trị đă được bỏ
phiếu), năng lực nổi trội, lĩnh vực
công tác. Nếu “áp” các tiêu chí chung cho nhóm “Bộ Sáu”, và “nhóm
2026” th́ cả 8 vị trí tái của Bộ chính trị
đều có cơ hội ngang nhau. Tuy nhiên theo tiêu chí
của chức danh này là “kinh qua và nổi trội trong các
lĩnh vực công tác an ninh, đối ngoại, tư
pháp..,” th́ ba ông Phạm B́nh Minh, Phó Thủ tướng,
Bộ trưởng Ngoại giao, ông Tô Lâm Bộ
Trưởng Công an, và ông Phạm Minh Chính, Trưởng ban
Tổ chức TƯ sẽ có lợi thế hơn.
Đối
với chức danh Thủ tướng, ngoài các tiêu chí chung,
theo lịch sử và truyền thống tất cả các
Thủ tướng hay Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng (trước đây) kể từ
thời Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đều trưởng thành từ Phó Thủ tướng.
Đó là các ông Phạm Hùng, Đỗ Mười, Vơ Văn
Kiệt, Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng và
Nguyễn Xuân Phúc. Điều này thể
hiện tiêu chí cho việc chọn lựa nhân sự Thủ
tướng đặt yếu tố “kinh nghiệm trong
điều hành bộ máy Hành pháp” lên hàng đầu.
Như
vậy các lợi thế sẽ thuộc về các Phó
thủ tướng hiện nay, ông Trương Ḥa B́nh, ông
Phạm B́nh Minh, và ông Vương Đ́nh Huệ. Hai ông Trịnh Đ́nh Dũng và ông Vũ
Đức Đam không tham gia Bộ Chính trị.
Trong
Ba Phó thủ tướng th́ ông Trương Ḥa B́nh sinh
năm 1955 th́ hiện nay không đủ tiêu chuẩn
tuổi để tái cử Bộ Chính trị, và về
lĩnh vực phụ trách ông cũng chuyên trách về
mảng nội chính, tư pháp. Ông Phạm B́nh
Minh chủ yếu phụ trách lĩnh vực đối
ngoại. Ông Vương Đ́nh Huệ,
nếu xét về tiêu chí thứ ba trong quy định
chức danh Thủ tướng là cần “có khả năng
hiểu biết sâu, rộng nền hành chính quốc gia, kinh
tế – xă hội đất nước; kinh tế, chính
trị thế giới và hội nhập quốc tế,”
th́ có vẻ như là người có nhiều lợi thế
nhất.
Cuối cùng là chức danh Chủ tịch Quốc hội,
cả hai nhóm “Bộ Sáu” và “nhóm 2026” gồm Tám Ủy viên
Bộ Chính trị có thể tái cử đều có cơ
hội như nhau để tiến đến chức danh
đứng đầu cơ quan Lập pháp này. Tuy nhiên
nếu theo tiêu chí của chức danh
Chủ tịch Quốc hội như “có năng lực
nổi trội, toàn diện trong các lĩnh vực công tác,
xây dựng pháp luật, giám sát thực thi pháp luật…” th́
bà Trương Thị Mai (SN 1958), Trưởng ban Dân
Vận hiện nay đang có lợi thế hơn cả.
Bà Mai,
từng là Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề
của Xă hội của Quốc hội, và cũng là Ủy
viên Thường vụ Quốc hội hai khóa liền
từ 2007-2016.
Bà Mai hiện cũng là một trong Ba người có thâm niên
tham gia Ban chấp hành TƯ chính thức lâu nhất (Ba khóa,
từ Đại hội X, 2006) trong số “bộ Tám tái
cử” cùng với hai người c̣n lại là ông Hoàng Trung
Hải tham gia ban chấp hành TƯ Bốn khóa, từ
Đại hội IX (2001) ông Vương Đ́nh Huệ
từ Đại hội X (2006).
Bà
là đại biểu Quốc hội có thâm niên cao nhất
trong nhóm “Bộ Tám” Ủy viên Bộ Chính trị có khả năng
tái cử hiện nay.
Nếu không có ǵ thay đổi Bà sẽ tham
gia làm Đại biểu Quốc hội ít nhất trọn
24 năm (kể từ năm 1997 cho đến Đại
hội 2021) là người tham gia sinh hoạt nghị
trường hơn hai thập kỉ liên tục.
Cuối
cùng cần nói thêm một truyền thống “bất thành
văn” có tính chất vùng miền khó có thể bỏ qua
đó là kể từ sau năm 1975, Bốn vị trí cao
nhất chưa bao giờ vắng mặt một nhân
vật đến từ Miền
Tuy
nhiên trong Bốn nhân vật trên theo quy
định bà Nguyễn Thị Kim Ngân, ông Nguyễn
Thiện Nhân và ông Trương Ḥa B́nh đă quá tuổi tái
cử Bộ Chính trị. Nhân vật miền
Nhóm “ngoài Tứ
Trụ”
Theo
nguyên tắc đến hết Khóa này số lượng
Ủy viên Bộ Chính trị vẫn có thể
được bổ sung để đạt trở
lại con số 19 như Đại hội XII đă
bầu. Nếu số lượng Ủy viên Bộ Chính
trị trở lại con số 19 th́ các vị trị
“Tứ trụ” được dự kiến cho Đại
hội XIII như phân tích ở trên theo chúng tôi không bị
ảnh hưởng. Nó chỉ ảnh
hưởng đối với vị trí của nhóm ở
dưới, nhóm “Bộ Tám” tái cử.
Đối
với vị trí Thường trực Ban Bí thư,
cơ hội cũng chia đều cho nhóm “Bộ Tám”
Ủy viên Bộ chính trị tái cử. Tuy nhiên các nhân
vật đang điều hành công tác Đảng hiện
nay được chú ư hơn bao gồm các ông Phạm Minh
Chính, bà Trương Thị Mai, ông Vơ Văn Thưởng và
ông Nguyễn Văn B́nh.
Vị
trí Bộ trưởng Quốc pḥng, nếu ông Ngô Xuân
Lịch không tái cử, theo truyền thống kế cận
sẽ là một nhân vật đến từ lực
lượng vũ trang là Bộ Quốc pḥng. Hiện nay
trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư
chỉ có ông Lương Cường (SN 1957) Bí thư TƯ
Đảng, công tác tại Bộ Quốc pḥng, ông là
Đại tướng, và là Chủ nhiệm Tổng
cục Chính trị. Những người ủng hộ ông
đương nhiên là muốn một kịch bản
lặp lại như ở Đại hội XI, lúc đó
ông Ngô Xuân Lịch cũng là Bí thư
TƯ Đảng và là Chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị.
Vị
trí Bộ trưởng Ngoại giao nếu ông Phạm B́nh
Minh rời đi để tiến đến một
vị trí cao hơn sau hai nhiệm ḱ chúng ta sẽ có Tân
bộ trưởng Ngoại giao. Nhân vật này theo
truyền thống Bộ trưởng sẽ là
người từ Bộ này, người hoạt
động ngoại giao chuyên nghiệp. Duy nhất trong quá
khứ tại Đại hội X (2006), Phó Thủ
tướng Phạm Gia Khiêm từ Chính phủ sang kiêm
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, do lúc đó Bộ
này khủng hoảng nhân sự (chỉ bầu
được một Ủy viên dự khuyết Ban
chấp hành Trung ương, đó là Thứ trưởng
Phạm B́nh Minh). Bộ Ngoại giao hiện
có hai thứ trưởng là Bùi Thanh Sơn và Lê Hoài Trung
đều là Trung ương Ủy viên.
Các
vị trí c̣n lại như các Trưởng các ban
Đảng bao gồm, Tổ chức, Tuyên giáo, Dân vận,
Kinh tế, các Bộ trưởng Công an, Bí thứ Hà
Nội, TP HCM theo chúng tôi vẫn c̣n là ẩn số cho
đến khi cấu trúc các vị trí chủ chốt bên
trên ổn định.
Theo
nguyên tắc việc cơ cấu các Ủy viên Bộ chính
trị để bầu tại Đại hội
thường nhắm vào các chức danh cụ thể,
ngược lại các chức danh đó phải
được cơ cấu “cứng” là Ủy viên Bộ
chính trị nắm. Như vậy hai Bí thư TƯ
Đảng hiện nay là ông Nguyễn Xuân Thắng, Chủ
tịch Hội đồng Lí luận TƯ, và ông Trần
Cẩm Tú, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra TƯ
hiện nay đang có nhiều lợi thế để
“ngồi vào” chiếc ghế Ủy viên Bộ chính trị
kế tiếp. V́ thường hai vị trí này theo truyền thống đều
được cơ cấu “cứng” phải là Ủy viên
Bộ Chính trị nắm.
“Khoảng
trống 6X”
Trong
số 23 Ủy viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư
hiện nay, chỉ có ba nhân vật sinh ở thế hệ
6X đó là ông Nguyễn Văn B́nh Ủy viên Bộ Chính
trị (1961), ông Trần Cẩm Tú, Bí thư TƯ
Đảng (1961), và ông Trần Thanh Mẫn Bí thư TƯ
Đảng (1962).
Điều
đặc biệt lưu ư đó là hiện trong Bộ Chính
trị chỉ có một nhân vật duy nhất ở
thế hệ 6X đó là ông Nguyễn Văn B́nh sinh năm
1961, điều đó cho thấy đang có một
khoảng trống thế hệ cho nhóm lănh đạo thế
hệ 6X, hay sự thiếu vắng những lănh
đạo chủ chốt thế hệ 6X.
Điều
đó dẫn đến việc Đại hội XIV (2026)
một thế hệ lănh đạo “6X,7X”
nhiệm ḱ Bộ Chính trị Ban Bí thư Khóa này nếu
được tái cử chỉ c̣n Bốn nhân vật là các
ông Vơ Văn Thưởng, Nguyễn Văn B́nh, Trần
Cẩm Tú và Trần Thanh Mẫn. Đó là một tỉ
lệ kế cận 6X khá khiêm tốn.
Do
vậy chúng tôi nhận định tại Đại
hội XIII chủ yếu sẽ là sự bổ sung
“thế hệ tuổi từ giữa cho đến
cuối 6X” cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư
để đảm bảo vững chắc nguyên tắc
kế thừa các thế hệ lănh đạo.
Theo
như phân tích trên đây cùng với truyền thống thâm
niên và kế thừa lănh đạo nếu không có ǵ thay
đổi, các ông Vơ Văn Thưởng, Nguyễn Văn
B́nh, ông Trần Cẩm Tú, và Trần Thanh Mẫn, sẽ
tiến đến những vị trị cao nhất trong
hệ thống quyền lực tại Đại hội
XIV (2026).
Nguồn: Facebook Trương Xuân
Danh
Trích:
Nghiên cứu quôc tế 05.05.19
Mục
Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển
điện tử:
hay
www.dcvapt.net
Email: dcvapt@gmail.com
Hiệp Hội Dân Chủ và
Phát Triển Việt