DC&PT - Thời
Sự 2019
Lê Vĩnh Triển
Tác giả cho rằng
các bước đi hiện tại của lănh đạo
quốc gia nên được đặt trong một tầm
nh́n dài hạn, chủ động hướng đến một
di sản gồm một ư thức dân tộc độc lập,
một non sông phát triển vững bền, một Việt
Nam cường thịnh đủ sức răn đe
đối với bất cứ thế lực bành trướng
nào, đặc biệt từ Trung Quốc.
Đánh giá các tranh luận, trao đổi thời gian gần
đây trên các phương tiện truyền thông, qua mạng
xă hội và một phần qua báo chí chính thống về sự
ngang ngược của Trung Quốc đối với các
nước nhỏ hơn trong khu vực - đặc biệt
với Việt Nam, Trung Quốc đă tỏ ra không chút kiêng
dè, ngang nhiên xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế,
thềm lục địa của Việt Nam - người
viết cảm nhận mối quan hệ giữa quá khứ,
hiện tại và tương lai của đất nước,
và nhận thấy có ảnh hưởng nhân quả của
hoàn cảnh đất nước đến tâm thế,
đến tầm nh́n của trí thức, doanh giới và
chính quyền, từ đó h́nh thành nên di sản của họ
cho tương lai đất nước (tác giả nhấn
mạnh hai thành phần trí thức và chính quyền như
đại diện cho dân một nước).
Tác giả cho rằng các bước đi hiện tại
của lănh đạo quốc gia nên được đặt
trong một tầm nh́n dài hạn, chủ động hướng
đến một di sản gồm một ư thức dân tộc
độc lập, một non sông phát triển vững bền,
một Việt Nam cường thịnh đủ sức
răn đe đối với bất cứ thế lực
bành trướng nào, đặc biệt từ Trung Quốc.
Hoàn cảnh, tâm thế và tầm nh́n
Cha ông ta hay nói cái khó bó cái khôn; nghèo sinh hèn. Đây là
đúc kết phổ biến ở góc độ cá nhân, gia
đ́nh. Nói “phổ biến” v́ một mặt không hẳn sẽ
đúng với mọi cá nhân, gia đ́nh gặp khó, và mặt
khác có người không gặp khó vẫn không khôn hay giàu nhưng
vẫn hèn.
Có những cá nhân, gia đ́nh tuy nghèo nhưng tâm thế
không hèn, quyết chí vươn lên, vượt qua số phận
v́ bản thân (nếu là cá nhân) và bố mẹ (nếu là gia
đ́nh) có được tầm nh́n - nhận thấy
được cơ hội và kỳ vọng vào thay đổi
trong tương lai, giữ vững cơ nghiệp, bí quyết
gia truyền… hay đơn giản là tập trung vào sự
học, tránh những cám dỗ tiền bạc nhất thời
chẳng hạn, th́ cá nhân, gia đ́nh đó sẽ tuy nghèo mà
không hèn, thoát khỏi cảnh nghèo, có được sự
kính trọng từ bên ngoài, nhờ vào quyết tâm và tầm
nh́n của ḿnh. Có tầm nh́n sẽ giúp họ có quyết
tâm v́ đă rơ con đường.
Đó là góc nh́n cá nhân, gia đ́nh. Ở phương
diện quốc gia, một quốc gia là tổng thể các
gia đ́nh, lănh đạo quốc gia không được
cho phép ḿnh hèn kém v́ nếu thế sẽ làm quốc gia hèn
kém. Lănh đạo quốc gia không được thiếu
tầm nh́n, v́ nếu thế sẽ làm bại hoại cả
một dân tộc. Không thể như cá nhân hay gia đ́nh bị
cái khó bó cái khôn, nghèo hèn, quốc gia có thể có những lúc
nghèo nhưng không thể hèn, trí thức (nghĩa rộng -
dân) và chính quyền của quốc gia đó không được
hèn kém (tâm thế kém cỏi) mới mong có một tầm
nh́n dài hạn, đi trước và chủ động trước
các thay đổi của thế giới và khu vực, không
đợi đến khi thay đổi diễn ra rồi
thụ động đối phó và lệ thuộc.
Trí thức và lănh đạo quốc gia phải cảnh
giác với tâm thế nhu nhược do bị ảnh hưởng
bởi hoàn cảnh khó khăn của đất nước
– không để tâm lư cái khó bó cái khôn, nghèo nên hèn giống như
những cá nhân, gia đ́nh thiếu trí tuệ và viễn kiến
trong nuôi dạy con cái ḿnh. Quốc gia có thể nghèo (GDP thấp
chẳng hạn) nhưng trí thức và lănh đạo quốc
gia không được hèn th́ mới có thể có một tầm
nh́n xa rộng đưa đất nước thoát nghèo mà
vươn lên.
Gần đây, có một số trí thức cho rằng nước
ta nghèo nên phải nhịn nhục, đồng thời diễn
dịch lịch sử Việt Nam theo hướng này. Rằng
Việt Nam nên học theo cha ông ta đă nhịn Trung Quốc
như từ bao đời phong kiến. Họ dẫn chứng
về việc xin phong vương của các vua Việt Nam
và việc triều cống của các triều đ́nh Việt
Nam với các triều đ́nh Trung Quốc.
Họ c̣n cho rằng Việt Nam là nước nhỏ và
yếu hơn Trung Quốc nên phải nhịn nhục, chấp
nhận thân phận nhược tiểu. Với những
lư lẽ này, họ biện minh cho mọi cách thức nhường
nhịn và bằng mọi giá tránh gây phiền phức cho
Trung Quốc v́ Trung Quốc giờ là một đại cường
c̣n Việt Nam là nước nhỏ đang lệ thuộc
Trung Quốc mọi mặt.
Thật đáng buồn cho tâm thế hèn kém xuất phát từ
sự đánh giá t́nh trạng đất nước như
thế này. Có thể thấy những trí thức với tâm
thế như vậy sẽ không tŕnh bày được một
tầm nh́n nào cho tương lai và triển vọng của
đất nước, có thể nói họ lo sợ sự
trả đũa của Trung Quốc đến tê liệt
và không đưa ra được một giải pháp nào
để đối phó. Có thể cho rằng nếu đất
nước có giàu hơn sẽ vẫn tồn tại những
thành phần với tâm thế này. V́ họ, dù có nghèo hay
giàu, vẫn hèn như phân tích ở trên về góc độ
cá nhân, gia đ́nh.
Thế tại sao có thể nói sự diễn dịch lịch
sử của họ là ngụy biện. Thứ nhất, ông
cha ta có thể đă chấp nhận là nước nhỏ,
cần giữ ḥa khí (cấp thuyền, ngựa cho tàn quân của
giặc ra về sau các cuộc chiến; xin sắc phong vương
rất h́nh thức) chứ ông cha ta không hèn.
Mong muốn ḥa b́nh nhưng không bao giờ nhân nhượng
khi một tấc đất cương thổ bị xâm hại.
Ông cha ta chấp nhận là nước nhỏ (tiểu), cần
giữ ḥa khí để phát triển chứ không hề yếu
(nhược). Nguyễn Trăi đă rất dơng dạc “Dẫu
cường nhược có lúc khác nhau/Song hào kiệt đời
nào cũng có”. Rất rơ ràng, ông cha ta c̣n xác định cường
- nhược hai bên có lúc này lúc khác chứ không phải lúc
nào ta cũng yếu kém và phương Bắc lúc nào cũng
hùng mạnh. Ngay trong hoàn cảnh các triều đại
Trung Hoa hùng mạnh, thậm chí hung tợn, hừng hực
khí thế, tràn sang xâm chiếm nước ta th́ cũng thường
bị đánh tơi bời…
Một vài ví dụ:
- Lê Đại Hành/Lư Thường Kiệt phá Tống
b́nh Chiêm, đặc biệt thời Lư Thường Kiệt
nhà Tống của Vương An Thạch là cực kỳ hưng
thịnh.
- Trần Hưng Đạo ba lần đại phá
Nguyên Mông khi đế quốc Mông Cổ hùng mạnh nhất
lịch sử (Việc Mông Cổ và Măn Thanh cai trị Trung
Quốc sau này cũng là cái tát nặng nề vào cái thiên hạ
quan tự huyễn hoặc của chính Trung Quốc).
- Lê Lợi/Nguyễn Trăi chống nhà Minh hùng mạnh, xây
dựng nhà Lê có những giai đoạn trong lịch sử
phát triển rực rỡ không thua kém ǵ các lân bang.
- Tây Sơn đánh tan tác quân nhà Thanh thời Càn Long cực
thịnh…
- Thời Gia Long, Minh Mạng, bờ cơi Việt Nam mở
rộng chưa từng có. Nhà Thanh giai đoạn đó
không chắc hùng mạnh hơn Việt Nam…
Đó là chưa bàn đến khía cạnh ngụy biện
về bối cảnh. Thế giới ngày nay là toàn cầu
hóa chứ không phải thời quan hệ “cá lớn nuốt
cá bé” giữa các nước như thời trung cổ. Các
quốc gia ngày nay hành xử với nhau c̣n phải tuân thủ
theo luật pháp quốc tế, các quốc gia lớn ngày nay
không thể hành xử bạo ngược như thời
phong kiến.
Nếu nước lớn có tâm thế bạo ngược,
bất tuân luật pháp quốc tế và các nước nhỏ
nếu cứ duy tŕ tâm thế hèn kém và không tin vào luật
pháp quốc tế th́ chính bản thân các nước nhỏ
đă tự đặt ḿnh vào thế áp đặt của
chính các nước lớn, và tự đánh mất sức
mạnh của thời đại mà ḿnh đang dự phần.
Hay có thể nói, các nước nhỏ nếu có tâm thế
như thế đă chấp nhận sự bất tuân luật
pháp quốc tế của các nước lớn.
Tâm thế, tầm nh́n và di sản
Có thể nói rằng, khả năng lănh đạo các nước
nhỏ rơi vào tâm thế nhu nhược là lớn hơn
lănh đạo ở các nước lớn, từ đó tầm
nh́n hạn hẹp, mơ hồ thiếu tự chủ, tự
biến ḿnh thành con cờ của các nước lớn bạo
ngược. Muốn không để t́nh trạng này xảy
ra, lănh đạo các nước nhỏ phải luôn xây dựng
cho ḿnh tâm thế mạnh mẽ, trí tuệ và viễn kiến
xa rộng, chủ động tham gia vào điều chỉnh
các quan hệ quốc tế, từ đó đưa đất
nước tiến lên và mục tiêu sau cùng là một quốc
gia vững mạnh cản trở các đe dọa từ
các nước lớn bạo ngược.
Nếu không có tâm thế và tầm nh́n như vậy, Lư
Quang Diệu đă không thể để lại một di sản
là một Singapore nhỏ bé mà vững vàng và được
tôn trọng. Nếu không có tâm thế và tầm nh́n như vậy,
lănh đạo các quốc gia như Nhật Bản khi canh
tân đất nước thế kỷ 19 và sau thế chiến
II đă không thể biến nước Nhật thành siêu cường
khiến Trung Quốc không thể đe dọa (nếu không
nói là ngược lại).
Tương tự như vậy, nếu các lănh đạo
không có tầm nh́n để thấy được yêu cầu
dân chủ hóa đất nước trong thập niên 1970,
1980 th́ các nước như Đài Loan và Hàn Quốc đă
không có được sự tin tưởng ủng hộ
từ các nền dân chủ phương Tây, không có được
sự bứt phá về kinh tế và ư thức hệ so với
Trung Quốc, để đưa đất nước
thoát bẫy thu nhập trung b́nh, tiến lên mạnh mẽ
và hạn chế những đe dọa thôn tính từ Trung
Quốc.
Cũng như các nước Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan và xa Trung Quốc hơn một chút về mặt
địa lư là Singapore, Việt Nam là một nước tương
đối nhỏ so với Trung Quốc. Định mệnh
đă đặt Việt Nam bên cạnh một quốc gia
khổng lồ về mọi phương diện. Đối
với một quốc gia như Trung Quốc, dễ nhận
thấy rằng lănh đạo của họ một cách tự
nhiên thủ đắc một tâm thế bạo ngược
và tầm nh́n xa rộng.
Với dân số gần một phần năm dân số
thế giới, lănh đạo của họ không có tầm
nh́n, tham vọng chiếm đoạt thiên hạ mới là
điều khó hiểu hơn. Nói nôm na, trong cuộc chơi
5 người dễ nhận ra rằng một cá nhân sẽ
dễ nảy sinh tham vọng và dễ có cơ hội tranh
đoạt làm bá chủ hơn. Nếu so với Việt
Nam, dân số một phần bảy mươi của thế
giới, một ḿnh Việt Nam sẽ gần như không có
tâm thế đoạt thiên hạ, bắt 69 người kia
làm chư hầu cho ḿnh.
Như vậy, Việt Nam đă luôn thường trực
đối mặt với sự bạo ngược của
Trung Quốc, luôn chịu ảnh hưởng tiêu cực và
trực tiếp bởi tầm nh́n của lănh đạo
Trung Quốc. Trong hoàn cảnh như vậy, nếu trí thức
và lănh đạo Việt Nam không cảnh giác với tâm thế
nhu nhược vốn dĩ là rào cản cho một tầm
nh́n xa rộng; không sở hữu một tầm nh́n xa rộng,
đoán định được những thay đổi
và cơ hội của thời cuộc mà cứ lay hoay hỏi,
bàn và giải quyết hậu quả của các vấn
đề trong nước và các biến động địa
chính trị một cách bị động, họ sẽ
để lại một di sản nhăn tiền là một
đất nước “không muốn phát triển”, doanh giới
thiếu động cơ vươn lên, một giới
trí thức lười suy nghĩ, một chính quyền ngày
càng lệ thuộc vào Trung Quốc vốn là nước
luôn xuất hiện những lănh đạo với tâm thế
bạo ngược và tầm nh́n thôn tính thiên hạ, thiên hạ
là thần dân của Trung Hoa (thiên hạ quan).
Dù biết rằng trong lịch sử, thiên hạ quan của
lănh đạo Trung Hoa có lúc đă bi đánh cho vỡ mặt
(Mông Cổ, Măn Thanh từng cai trị Trung Hoa, cũng như
nhà Thanh với tâm thế hèn kém vẫn tự coi ḿnh là trung
tâm vũ trụ, đă bị tám nước liên quân đánh
cho tơi tả).
Cần phải nhận thức rơ ràng rằng, lănh đạo
Trung Quốc bao đời vẫn xem thiên hạ là chư hầu
của họ, tất cả các học thuyết phát triển
của họ dù vay mượn từ bên ngoài cũng đều
phục vụ cho việc làm bá chủ thiên hạ mà trước
hết là thôn tính các nước lân bang hèn kém. Nếu các nước
nhỏ lệ thuộc vào ư thức hệ của họ,
xem đây là tầm nh́n chung, sẽ dẫn đến lệ
thuộc, mất tính độc lập trong tư duy. Do
không có một tầm nh́n độc lập và chủ động
th́ cuối cùng sẽ bị rơi vào bẫy, phục tùng
thiên hạ quan của họ.
Việc Trung Quốc leo thang các hoạt động quấy
phá ở Biển Đông, đặc biệt sự kiện
băi Tư Chính, đă bộc lộ rơ tham vọng của chính
quyền Trung Quốc trong việc độc chiếm Biển
Đông. Việt Nam cần thể hiện rằng các vấn
đề về biên giới lănh thổ là không thể bị
ràng buộc bởi bất cứ rào cản ư thức hệ
nào, dù có ngụy trang bằng “tầm nh́n chung”, nhằm trói
tay Việt Nam trong việc lên tiếng bảo vệ lănh thổ
của ḿnh. Việt Nam cần cẩn trọng đối với
cái gọi là “tầm nh́n chung” mang màu sắc ư thức hệ
này, nó có thể khiến chúng ta mất đi sự ủng
hộ mạnh mẽ của các quốc gia khác.
Cuối cùng, việc học hỏi trong quản lư kinh tế,
quản lư xă hội có thể là cần thiết. Tuy nhiên, nếu
quá rập khuôn sẽ dễ dẫn đến sự lệ
thuộc và tâm lư ngày càng ỷ lại vào mô h́nh Trung Quốc.
Từ đó dễ dẫn đến sự triệt tiêu sức
sáng tạo và tầm nh́n độc lập. Nếu lănh
đạo và giới trí thức trong nước không c̣n
tham vọng t́m ra hướng đi riêng, trang bị một
tầm nh́n xa rộng, chủ động cho ḿnh th́ sẽ
không thể dẫn dắt đất nước đến
phồn vinh, mạnh mẽ - là di sản cho con cháu đời
sau ǵn giữ và phát triển.
Bài học các nước Đông Á nêu ở trên trải
qua hai thế kỷ đă chỉ rơ: độc lập tư
duy, độc lập về tầm nh́n riêng của dân tộc
là khởi đầu của tự cường và thịnh
vượng!
“Dẫu cường nhược có lúc khác nhau/ Song hào kiệt
đời nào cũng có”… Nguyễn Trăi từng nói.
L.V.T.
Trích:
BVN 23.10.19
Mục
Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển
điện tử:
hay
www.dcvapt.net
Email: dcvapt@gmail.com
Hiệp Hội Dân Chủ và
Phát Triển Việt