DC&PT -
Thời Sự 2019
Nguyễn Quang A (DĐXHDS, Việt Nam)
Tôi tham dự Hội thảo 30 năm sự cố Thiên An Môn tại Đài Bắc có nhiều thông tin thú
vị sẽ chia sẻ với các quư vị trong Diễn đàn XHDS
vào cuối tuần này hay đầu tuần sau. Đây là buổi thứ 3 tôi chia sẻ với bạn bè quốc tế về chiến lược dân chủ hoá của chúng ta
(đă được xác định từ 2013) nhưng chưa được quảng bá ra quốc tế và cũng chưa thật sự được quảng bá trong nước. Xin gửi quư vị bài viết và bài tŕnh
bày của tôi (phần chiến lược được tŕnh bày tại Forum 2000
năm 2017, tại Hội thảo khai trương Forsea ở Malaysia
đầu năm nay và lần thứ 3 tại Đài Bắc. Chúng ta
cũng nên cập nhật chiến lược này cho phù hợp với t́nh h́nh và mong được quư vị góp ư tiếp.
N.Q.A |
Phản kháng Thiên An Môn là một cách gọi ngắn gọn
của một phong trào xă hội toàn quốc kéo dài bảy
tuần mà đă lan ra khắp Trung Hoa đại lục
trong năm 1989. “Vào ngày 17 tháng Tư, hai ngày sau khi Hồ Diệu
Bang chết, các sinh viên ở Bắc Kinh đă xuống
đường. Trong bảy tuần, những cố gắng
to lớn của dân chủ hoá Trung Quốc đă trải
qua một chu kỳ nhanh của sự huy động, sự
phân cực, sự đối đầu đẫm máu, và sự
đàn áp” [Đới T́nh-Dai Qing]. Nh́n lại các cuộc Phản
kháng Thiên An Môn sau 30 năm chúng ta có thể học một số
bài học để noi theo hay để tránh ở nơi
khác. Trong bài này tôi thử lựa ra vài hồi phản kháng
và xem xét chúng dưới ánh sáng của “dân chủ hoá sôi
động”, một khung khổ được Donatella del
Porta đề xướng gần đây, để hiểu
kỹ hơn quá tŕnh phản kháng sinh viên năm 1989 và đặc
biệt v́ sao chúng đă thành công trong việc huy động
nhưng rốt cuộc đă thất bại dẫn đến
vụ thảm sát 4 tháng Sáu. Bài này thử rút ra vài bài học
từ các cuộc phản kháng Thiên An Môn (và từ những
sự huy động thành công hay thất bại khác cho dân chủ
kể cả những huy động ở Đài Loan) mà
đă ảnh hưởng đến việc h́nh thành một
chiến lược trong năm 2013 cho dân chủ hoá ở
Việt Nam. Chiến lược được tóm tắt ở
cuối bài này.
I. MÔ TẢ
Tôi nghĩ là hữu ích để phân chia các đấu
thủ thành vài nhóm ở những mức trừu tượng
hoá khác nhau và phân định bảy tuần này thành vài pha
theo các đấu thủ cụ thể.
Về phần các đấu thủ, sự phân chia thô nhất
(ở mức P0) là chia họ thành những người cai
trị và những người bị trị; một sự
phân chia tinh tế hơn một chút (ở mức P1) gồm:
a) một mặt các sinh viên và trí thức không thống nhất
thử giành sự ủng hộ của phần c̣n lại
dân chúng đại diện cho những người bị
trị; và mặt khác những người cai trị gồm
b) một phái lănh đạo theo đường lối mềm
với Triệu Tử Dương đứng đầu;
c) một phái cứng rắn với Lí Bằng đứng
đầu; và d) Đặng Tiểu B́nh, người ra quyết
định cuối cùng, (và các Đảng viên lăo thành khác) ở
giữa mà sự ủng hộ của họ các phái b) và c)
cố gắng để giành được. Bởi v́
Đặng Tiểu B́nh là một nhà cải cách thực sự
về mặt kinh tế nhưng rất bảo thủ trong
lĩnh vực chính trị, phái nào kiếm được sự
ủng hộ của ông sẽ thắng và phái kia thua. Đặng
Tiểu B́nh đă luôn cứng rắn đối với các
cuộc phản kháng sinh viên như được nhiều
hành động của ông trong quá khứ minh hoạ, kể
cả thái độ gần đây nhất của ông đối
với các cuộc biểu t́nh sinh viên trong tháng Mười
Hai 1986 mà đă đẩy nhanh quyết định của
ông để sa thải Hồ Diệu Bang vào ngày 4 tháng Giêng
1987.
Về phân định thời gian, chúng tôi theo Đới
T́nh [Dai 1999] (bà đă phân quá tŕnh thành 5 pha từ quan điểm
của các trí thức và sinh viên, các pha của chúng tôi là tương
tự nhưng bám sát những quyết định thật
sự của những người cai trị mà những
thông tin đó từ Hồi kư của Triệu năm 2009
đă không có cho Đới mười năm trước
1999). Việc phân định thời gian này lựa ra những
sự kiện cho thấy một cách sống động
động học và các cơ chế mà [Donatella 2014] đă
tổng hợp thành một khung khổ lư luận từ những
kinh nghiệm của Trung Quốc và các nước khác:
1. Pha đầu tiên, từ 17 tháng Tư đến chiều
tối 23, trong tuần đầu tiên khi Triệu Tử Dương,
Tổng Bí thư ĐCSTQ chịu trách nhiệm quản lư việc
sinh viên phản kháng. Vào ngày 19 tháng Tư, tờ Điểm
tin Kinh tế Thế giới (một tờ báo khai phóng ở
Thượng Hải) và tạp chí Quan sát Mới đă cùng
nhau tổ chức một hội thảo chuyên đề về
tưởng niệm Hồ Diệu Bang. Vào ngày 22 tháng Tư
các sinh viên đă tổ chức lễ tưởng niệm
riêng của họ cho Hồ Diệu Bang ở Quảng trường
Thiên An Môn trong khi quốc tang chính thức đang diễn ra
tại Đại Lễ Đường. Ba sinh viên đă
quỳ trên các bậc cửa lên Đại Lễ Đường
dâng sớ đ̣i đối thoại với Chính phủ.
Thái độ của các nhà chức trách đă kiềm chế
chưa từng thấy.
2. Pha thứ hai, từ tối 23 tháng Tư, khi Triệu
đi xe lửa hướng tới Bắc Triều Tiên cho
một cuộc viếng thăm nhà nước đă định
trước từ 24 đến 29 tháng Tư, đến cuối
ngày 29 tháng Tư khi Triệu quay lại Bắc Kinh. Vào chính
tối 23 tháng Tư, Lí Tích Minh và Trần Huy Đồng của
Thành uỷ Bắc Kinh đă yêu cầu Vạn Lí (Chủ tịch
Quốc hội và KHÔNG phải một uỷ viên Ban Thường
vụ Bộ Chính trị, BTV), để triệu tập một
cuộc họp BTV để nghe báo cáo của họ. Vạn
Lí đă chuyển yêu cầu của họ cho Lí Bằng, v́
Lí Bằng đă tạm thời chịu trách nhiệm về
các hoạt động BTV trong khi Triệu ở nước
ngoài. Ngay vào tối hôm sau, 24 tháng Tư, Lí Bằng đă triệu
tập một cuộc họp BTV. Cùng hôm đó tại Thượng
Hải, Điểm tin Kinh tế Thế giới đă
đăng một phóng sự chi tiết về hội thảo
ngày 19 tháng Tư của họ bất chấp cảnh cáo kiểm
duyệt của Thành uỷ Thượng Hải. Và vào ngày
25 tháng Tư, Lí Bằng và Dương Thượng Côn
đă báo cáo cho Đặng Tiểu B́nh về cuộc họp
BTV, Đặng Tiểu B́nh ngay lập tức đă đồng
ư gán nhăn các cuộc biểu t́nh sinh viên là “chống-Đảng,
động loạn chống-xă hội chủ nghĩa”[1] và
đề xuất giải quyết t́nh h́nh nhanh chóng. Phái cứng
rắn đă kéo được Đặng Tiểu B́nh về
phía họ. Lí Bằng đă phát tán các nhận xét của
Đặng Tiểu B́nh vào chính tối hôm đó cho tất cả
các cán bộ ở mọi mức và đă lệnh cho Nhân dân
Nhật báo đăng một bài xă luận cực kỳ cứng
rắn trên số ngày 26 tháng Tư. Tại Thượng Hải,
vào cùng ngày 26 tháng Tư, Bí thư Thành uỷ Giang Trạch
Dân đă sa thải Khâm Bổn Lập tổng biên tập của
Điểm tin Kinh tế Thế giới và đă đóng cửa
tờ báo, gây ra những cuộc phản kháng giữa các nhà
báo khắp cả nước. Lí Bằng đă hy vọng rằng
xă luận Nhân dân Nhật báo sẽ đe doạ các sinh viên
nhưng thay vào đó nó đă khiến họ tức giận
đến mức sẵn sàng xuống đường
để bày tỏ ư kiến của họ bởi v́ họ
đă được pha đầu tiên cổ vũ hết
sức và được đưa tin toàn cầu. Cuộc
biểu t́nh ngày hôm sau, 27 tháng Tư, mười đến
mười lăm ngàn sinh viên, và nhiều dân cư hơn rất
nhiều (hàng trăm ngàn người) đă xuống đường
biểu t́nh. Bị bất ngờ, Lí Bằng đă cảm
thấy áp lực để yêu cầu Viên Mộc, người
phát ngôn của Quốc Vụ Viện, Hà Đông Xương,
Viên Lập Bổn và Lục Vũ Trừng để tổ
chức một cuộc đối thoại với các đại
diện sinh viên từ 16 đại học Bắc Kinh và các
trí thức độc lập vào ngày 29 tháng Tư.
3. Pha thứ ba, từ 30 tháng Tư đến
17 tháng Năm. Sau khi quay về Bắc Kinh, Triệu Tử Dương
đă cố gắng t́m hiểu những ǵ đă xảy ra
khi ông không ở Bắc Kinh và đă thử hết sức
để quản lư các cuộc phản kháng sinh viên. Vào ngày
1 tháng Năm, Triệu đă đề xuất tại một
cuộc họp Ban Thường Vụ Bộ Chính trị rằng
Bộ Chính trị lệnh cho Uỷ Ban Kỷ luật Trung ương
và Bộ Giám sát mở một cuộc điều tra các
thành viên gia đ́nh ông v́ những cáo buộc tham nhũng nhằm
đáp lại các đ̣i hỏi của sinh viên để chống
tham nhũng, chống ưu ái cho các quan chức. Vào ngày 3
tháng Năm Triệu đă thảo luận với Vạn
Lí, Chủ tịch Uỷ ban Thường Vụ Quốc hội,
về các cuộc biểu t́nh sinh viên. Vạn đă hoàn toàn
đồng ư với Triệu; ông cũng đă thử thuyết
phục những người khác để thay đổi
giọng của xă luận 26 tháng Tư. Vào ngày 4 tháng
Năm, Triệu Tử Dương đă tŕnh bày bài phát biểu
của ông cho các đại biểu Ngân hàng Phát triển Á
châu kêu gọi giải quyết cuộc biểu t́nh sinh viên
“trên cơ sở các nguyên tắc dân chủ và luật”. Các
sinh viên đă trở lại các lớp học của họ.
Vào ngày 6 tháng Năm, Triệu đă thảo luận với
Hồ Khởi Lập (uỷ viên BTV) và Nhuế Hạnh
Văn (Bí thư của Ban Bí thư TW), ông “đă đề
xuất rằng cần chú ư khi soạn thảo luật báo
chí mới để nới lỏng những hạn chế
về tường thuật tin tức, các bài xă luận, và
b́nh luận” theo những đ̣i hỏi của sinh viên cho
quyền tự do báo chí. Và vào ngày 9 tháng Năm “Hồ Khởi
Lập đă tập hợp các nhận xét của Triệu
thành một thông báo được phân phát cho các tổ chức
báo chí sau khi Triệu đă soát lại và chuẩn y”. Vào ngày
10 tháng Năm, cuộc họp Bộ Chính trị đă quyết
định rằng việc tổ chức các cuộc thảo
luận với mỗi nhóm dính líu đến các cuộc biểu
t́nh sẽ là một con đường lư tưởng để
giải quyết các vấn đề của các sinh viên. Vào
ngày 12 tháng Năm “Hồ Khởi Lập và Nhuế Hạnh
Văn tại một cuộc họp đă thông báo cho các
lănh đạo của các tổ chức báo chí Bắc Kinh về
sự đối thoại. Vào lúc đó, hơn một ngàn
người từ các tổ chức báo chí Bắc Kinh
đă kư một kiến nghị và đă xuống đường
phản đối”. Do các nhà chức trách chấp nhận
loại thái độ này, các sinh viên ở tất cả các
đại học ở Bắc Kinh đă chấp nhận
để tuyên bố ngừng băi khoá. Trật tự xă hội
về cơ bản đă được khôi phục. Vào
ngày 13 tháng Năm, hai ngày trước cuộc viếng
thăm chính thức của Gorbachev và kế hoạch của
các sinh viên lợi dụng cơ hội để lại biểu
t́nh, Triệu Tử Dương đă tŕnh bày một bài phát
biểu để thuyết phục các sinh viên đừng
“quấy rầy các cuộc đàm phán quốc tế của
nhà nước và gây tổn hại cho Thượng đỉnh
Trung-Sô”. Các sinh viên đă chẳng hề đáp lại lời
khẩn cầu của Triệu, họ đă vào Quảng trường
Thiên An Môn để tổ chức một cuộc toạ
kháng và một tuyệt thực, hàng trăm trong số họ
đă bắt đầu tuyệt thực. Cuộc chiếm
Quảng trường đă bắt đầu. Các cố gắng
của các đồng minh của Triệu, Diêm Minh Phúc và Lí
Thiết Ánh để thương lượng với các
sinh viên vào ngày 14 tháng Năm đă thất bại. Diêm thậm
chí đă ra Quảng trường vào ngày 16 tháng Năm nhằm
thuyết phục các sinh viên chấm dứt tuyệt thực,
nhưng cũng đă thất bại.
Biểu t́nh đă không chỉ xảy ra ở Bắc
Kinh, mà ở các thành phố lớn khác nữa. Thí dụ, “ở
Thành Đô, điểm ngoặt của phong trào đă đến
vào những giờ đầu của ngày 16 tháng Năm, khi
hơn một ngàn cảnh sát đă ẩu đả với
khoảng hai trăm sinh viên, đánh chúng bằng gậy và
dây lưng để thử dọn sạch quảng trường...
hành động này đă kích phong trào, thậm chí có được
sự ủng hộ từ các nhà chức trách đại học,
những người trước đó đă khoá cổng
trường để cản sinh viên tham gia các cuộc biểu
t́nh”. [Lim 2014, p. 184]
Về phần các sinh viên, được cổ vũ bởi
những sự huy động của vài tuần đầu
tiên, các đ̣i hỏi của sinh viên đă leo thang, đề
xuất đối thoại với các quan chức, và hơn
nữa, đ̣i truyền h́nh trực tiếp trên TV. Sau đối
thoại 29 tháng Tư, và sau quyết định của cuộc
họp Bộ Chính trị 10 tháng Năm Diêm Minh Phúc, một
bí thư của Bộ Chính trị và một đồng
minh của Triệu, đă ra Quảng trường để
thương lượng với các lănh tụ sinh viên mà
không có kết quả; Diêm và Lí Thiết Ánh (một uỷ
viên Bộ Chính trị phụ trách giáo dục) đă tổ
chức một cuộc đối thoại vào ngày 14 tháng
Năm với các trí thức (có cả Đới T́nh) và các
lănh tụ sinh viên nhưng nó đột ngột bị ngừng
khi một nhóm sinh viên từ Quảng trường đến
và đ̣i chấm dứt đối thoại bởi v́ nó
đă không được truyền h́nh trực tiếp. Vào
ngày 16 tháng Năm, trên Quảng trường Diêm đă tự
nộp ḿnh như một con tin để chứng tỏ
tính chân thực của ḷng tin của ông rằng mọi vấn
đề sẽ mau chóng được giải quyết.
Các sinh viên lại muốn Chính phủ đầu hàng.
Vào ngày 17 tháng Năm Triệu đă xin gặp riêng Đặng
Tiểu B́nh, khi ông đến nhà Đặng Tiểu B́nh vào
chiều hôm đó, hoá ra là Đặng đă triệu tập
tất cả các uỷ viên khác của BTV Bộ Chính trị
và Dương Thượng Côn đến họp. Quyết
định được đưa ra để áp đặt
quân luật. Triệu nói sẽ khó cho ông với tư cách Tổng
Bí thư để thực hiện quân luật. Triệu Tử
Dương de facto đă bị loại.
Đánh giá pha này, Đới T́nh đă nói rơ, “Tại
điểm này đă vẫn chưa có đủ bằng chứng
để có thể giải thích v́ sao trong bối cảnh
này một số lănh tụ sinh viên cấp tiến lại
đă gây ra t́nh h́nh leo thang. Và hơn nữa, đă sử dụng
các phương pháp cực đoan, một cuộc tuyệt
thực. Từ 13 đến 17 tháng Năm, những người
cực đoan đă khăng khăng về các điều
kiện mà các nhà chức trách đă chẳng bao giờ có thể
chấp nhận. Họ đă đánh bạc với cuộc
sống của những người trẻ, và không chịu
nhường bước, ngay cả với yêu cầu tối
thiểu của chính quyền, tức là, tạm thời trả
lại và nhường Quảng trường Thiên An Môn cho
công việc quốc gia chào đón Tổng thống Gorbachev”
[Dai 1999]. Vào tối ngày 17 tháng Năm, Triệu đă đi thăm
các sinh viên tuyệt thực phải nằm ở bệnh viện.
4. Pha thứ tư, từ 18 tháng Năm đến cuộc
đàn áp cuối cùng của quân đội. Triệu trên thực
tế đă bị những người theo đường
lối cứng rắn bỏ qua. Ngày 18 tháng Năm, Thủ
tướng Lí Bằng, Bí thư Thành uỷ Bắc Kinh Lí
Tích Minh và thị trưởng Trần Huy Đồng (những
người bảo thủ cứng rắn) cũng như
Diêm Minh Phúc, Lí Thiết Ánh (các nhà cải cách) đă tổ chức
một cuộc gặp với các lănh tụ sinh viên
(Wu’erkaixi [Ngô Nhĩ Khai Hy], Vương Đan và Hùng Diễm).
Lí Bằng đă coi cuộc gặp không như một cuộc
thương lượng giữa hai bên và đ̣i các sinh viên
chấm dứt tuyệt thực và đă đối xử
các sinh viên như “những đứa trẻ con”. Và cuộc
gặp đă kết thúc mà không có kết quả nào bởi
v́ Lí Bằng đă không coi các lănh tụ sinh viên như các
đối thác thương lượng như họ
đ̣i hỏi. Vào ngày 19 tháng Năm, biết trước những
ǵ sẽ xảy ra cho các sinh viên, Triệu đă ra Quảng
trường để làm cố gắng cuối cùng của
ông nhằm thuyết phục các sinh viên rời Quảng trường
ngay lập tức và vô điều kiện. Mắt đẫm
lệ, ông đă không thể nói với những người
trẻ quanh ông nhiều hơn. Những ǵ ông nói đă chỉ
là, quá muộn cho tôi để gặp các bạn. Và tôi là một
người già, các bạn, các bạn trẻ phải lo cho
ḿnh, bởi v́ các bạn có một tương lai tươi
sáng. Nhưng các lănh tụ sinh viên đă không đáp ứng.
Đó đă là sự xuất hiện trước công chúng
cuối cùng của Triệu. Vào ngày 19 tháng Năm, một cuộc
họp BTV Bộ Chính trị đă được tiệu
tập để công bố quân luật, Triệu được
yêu cầu chủ toạ cuộc họp đó nhưng ông
đă từ chối tham dự. Vào ngày 20 tháng Năm, quân luật
được công bố công khai. Việc này lần nữa
lại đă huy động quần chúng. Binh lính bị các
công dân chặn không vào được thành phố để
thi hành quân luật. Sự bế tắc kéo dài hơn mười
ngày, quân luật đă trở nên không có hiệu lực và
điều này đă cổ vũ ngày càng nhiều người
tham gia biểu t́nh. “Nhân dân đă dũng cảm đương
đầu với quân đội—sử dụng chẳng ǵ
ngoài thân thể họ và mưu kế của họ—và họ
đă chiến thắng. Đối với các sinh viên, đấy
đă là một chiến thắng lớn, một dấu hiệu
rằng phong trào của họ đă trở thành một
phong trào quần chúng” [Lim 2014, p. 13].
Mặc dù trên thực tế đă bị gạt sang bên lề,
Triệu Tử Dương đă thử cứu văn t́nh thế
bằng việc gửi một bức thư cho Đặng
Tiểu B́nh vào ngày 18 tháng Năm, bằng việc nói với
vài người để gọi Vạn Lí về nước
từ một cuộc viếng thăm nhà nước chính
thức ở nước ngoài và đă thuyết phục cho
một cuộc họp Uỷ Ban Thường Vụ Quốc
hội hay một cuộc họp Bộ Chính trị, tất
cả những cố gắng này đă đều vô ích. Thực
tế ông đă bị giam lỏng, và đă nghe tiếng súng
nổ dữ dội vào đêm 3 tháng Sáu từ nhà ông. “Vào
ngày 2 tháng Sáu, cố gắng cuối cùng của các nhà cải
cách, các đại diện của con trai cả của
Đặng Tiểu B́nh đă thử khuyên các sinh viên để
bắt đầu rút lui và rồi Đặng trẻ đă
nói ông sẽ làm hết sức ḿnh để dùng lư lẽ
thuyết phục cha ông đừng sử dụng vũ lực.
Một cách không ngờ, nó cũng đă không mang lại thành
công. Vào nửa đêm 3 tháng Sáu, các xe tank đă tiến vào Quảng
trường. Bốn người ôn hoà, một ca sĩ, một
giáo viên, một học giả, và một biên tập viên, với
sự đi cùng của một bác sĩ, đă đi ra và
đă đạt một thoả thuận với quân đội,
một sự rút lui không điều kiện vào một thời
điểm định trước. Các lănh tụ cực
đoan đă không ngăn họ lần này và lần nữa
họ đă nhận được sự giúp đỡ
trong việc chạy trốn. Đấy đă là ngày bi thảm
nhất trong lịch sử chính trị thế kỷ thứ
hai mươi của Trung Quốc”. [Dai 1999].
Có nhiều phân tích về các cuộc phản kháng Thiên An
Môn, thí dụ, [Lim 2014] và [Donatella 2014] đặc biệt những
phân tích của Craig Calhoun được Donatella trích dẫn
rộng răi. Các cơ chế trong dân chủ hoá sôi động,
mà đă được Donatella tổng hợp (xem Bảng
2.1 của bà, trang 64) không chỉ từ trường hợp
Trung Quốc mà từ nhiều trường hợp khác như
Đông Đức, Tiệp Khắc, Tunesia, Ai Cập và nơi
khác, là rất hữu ích. Các cơ chế nhận thức,
xúc cảm và quan hệ cũng như việc định
khung dân chủ và sự huy động các nguồn lực
là khá rơ trong bảy tuần huy động này ở Trung Quốc
[Donatella 2014, p. 64-65, 134-137, 304]. Tất cả các cơ chế
nhân quả và các sự định khung cũng như sự
huy động nguồn lực hay sự tạo ra nguồn
lực này mang tính động và tương tác với các
hành động của các đối thủ (những người
cai tri) mà luôn luôn không rơ cho những người biểu t́nh
và có thể gây ra những đánh giá sai. Về nhiều phân
tích hơn xem các công tŕnh được nhắc tới ở
trên và các dẫn chiếu trong đó. Sự mô tả ngắn
gọn ở trên cũng thử làm nổi bật các cơ
chế đó và quá tŕnh leo thang từ cả hai phía.
II. VÀI BÀI HỌC
Chúng tôi thử rút ra vài bài học từ các cuộc phản
kháng Thiên An Môn, cũng như từ các cố gắng dân chủ
hoá ở nơi khác, mà có thể xác đáng cho quá tŕnh dân chủ
hoá ở Việt Nam.
Cuộc đấu tranh bất bạo động cho dân
chủ hoá là một cuộc đấu tranh dài, khó khăn
và gian khổ. Thành công hay thất bại của nó phụ
thuộc vào nhiều nhân tố (kể cả các nhân tố
ngẫu nhiên). Chúng ta có thể phân biệt các nhân tố
(không ngẫu nhiên) này thành hai loại: các nhân tố tương
đối ổn định (theo nghĩa chúng thay đổi
chậm), như các điều kiện cấu trúc, các nguồn
lực hành động, các giá trị thịnh hành, (xem
[Welzel, 2013, tr. 45-46]), và các nhân tố (hay các phần của
chúng) mà có thể thay đổi nhanh hay sinh ra trong quá tŕnh
huy động, đặc biệt trong pha mạnh mẽ,
như các quan hệ và các cơ chế nhận thức, xúc
cảm và quan hệ (xem, [Donatella 2014, p. 27-65]. Chúng ta gọi
các nhân tố loại trước là các nhân tố cấu
trúc (kể cả các kỹ năng tổ chức và lănh
đạo) và các nhân tố sau là các nhân tố hợp trội
(emergent) [Donatella 2014, p. 32].
Chúng ta nhận thấy rằng dân chủ hoá có vẻ có
nhiều khả năng thành công hơn trong những trường
hợp nơi các nhân tố cấu trúc là thuận lợi hơn
(hay diễn đạt một cách h́nh tượng các điều
kiện nền này là đủ cao) trong cả dân chủ hoá
sôi động (eventful democratization) hay hiệp ước
tham gia (participatory pact) do đám đông dẫn dắt và
trong chuyển đổi dân chủ được thoả
ước (pacted transition) do elite dẫn dắt [Donatella
2014, p. 16]. Tuy vậy, nếu các điều kiện cấu
trúc là ít thuận lợi hơn (không đủ cao) th́ dân chủ
hoá sôi động có khả năng thất bại giữa
các điều kiện khác như nhau.
Theo Donatella del Porta “ở Trung Quốc, bất bạo
động đă thất bại trong các cuộc biểu
t́nh Quảng trường Thiên An Môn do đối lập thiếu
các liên minh; thay vào đó, những sự chia rẽ đă
tăng lên với sự thiếu tác động đ̣n bẩy
cho sự ủng hộ từ nước ngoài, và chế
độ đă duy tŕ sự kiểm soát quân đội.
Trong khi tính kiên cường thực ra đ̣i hỏi các cấu
trúc phân tán (phi tập trung), mà, là dân chủ hơn, tăng cường
ư thức đối lập mặc dù cho phép sự điều
phối, các cố gắng để áp đảo bởi một
phần có kết quả ngược lại”. [Donatella 2018,
tr. 8]. Đánh giá này phù hợp với đánh giá của
Đới T́nh, “Những người biểu t́nh về cơ
bản đă có cơ hội nhiều lần để rút
lui mà không có được bất kể lợi lộc lớn
nào nhưng cũng chẳng có sự mất mát khủng khiếp
nào. Và phẩm giá của họ cũng đă có thể được
duy tŕ. Nhưng phong trào đă tuột khỏi ṿng kiểm
soát rồi. Nhiều tổ chức đă được
thành lập lúc này, và một vài trong số chúng đă xem xét
để lấy (công đoàn) Đoàn kết như danh hiệu
của chúng. Tính đến ư định của các nhà chức
trách và chuẩn bị tương lai riêng của họ, các
lănh tụ cực đoan đă chỉ áp dụng cường
độ xúc cảm cao nhất trong cuộc nói chuyện của
họ với chế độ, mà đối với những
người vẫn tiếp tục ở lại trên Quảng
trường đă giống như đổ dầu vào lửa”.
Các tổ chức xă hội dân sự đă hiếm hay
các nhóm sinh viên độc lập đă chỉ được
thành lập trong thời gian các cuộc biểu t́nh, đă
không có các tổ chức độc lập giữa các công
nhân, các trí thức hay các mảng khác của dân cư bởi
v́ ĐCSTQ đă cấm nghiêm ngặt sự h́nh thành của
các tổ chức hay các nhóm phi chính thức như vậy.
Sau khi Triệu trên thực tế bị loại bỏ
và những người theo đường lối cứng
rắn đă kéo được Đặng Tiểu B́nh sang
phía họ, những kẻ cai trị đă thống nhất.
Nói cách khác, các điều kiện cấu trúc (kể cả
kỹ năng tổ chức, kinh nghiệm lănh đạo)
đă không thuận lợi cho dân chủ hoá.
Các sinh viên đă thử bắt chước Đoàn Kết
Ba Lan đ̣i đối thoại nhưng đă không có lực
lượng đối lập nào đứng sau họ như
trong trường hợp Ba Lan.
Một bài học cực kỳ quan trọng từ các cuộc
phản kháng Thiên An Môn hay ở Phillipines (và nhiều trường
hợp khác như hiện thời ở Algeria, Sudan hay
Venezuela) là, quân đội đóng một vai tṛ cốt yếu,
và các chính sách để thuyết phục quân đội,
để lôi kéo chúng (binh vận 兵運) là quan trọng trong huy
động cho dân chủ và để “quốc hữu hoá”
quân đội trong pha củng cố dân chủ.
Cuộc tranh luận về tiết chế (moderation
debate) cũng đáng xem xét. Tiết chế từ lâu đă
được xem như thuận lợi cho chuyển đổi
dân chủ (democratic transition) [Donatella 2014, tr. 9, 197-198]. Tuy vậy,
có nhiều trường hợp đă chứng minh rằng
sự cấp tiến hoá (hay sự gây gổ) là hữu ích
trong dân chủ hoá sôi động [Donatella 2014, p. 9, 199-200],
Nancy Bermeo [trong Anderson 1999, tr. 120-136]. Điều này có
nghĩa rằng chúng ta phải xem xét sự tiết chế
vs sự cấp tiến hoá (moderation versus radicalization) từng
trường hợp một hay trong những pha khác nhau của
dân chủ hoá (trong pha chuẩn bị cho chuyển đổi
những sự gây gổ đă xuất hiện hầu như
trong mọi trường hợp, nhưng trong giai đoạn
chuyển đổi ngắn sự tiết chế có thể
tạo các cơ hội tốt trong chuyển đổi
được thoả ước do elite-dẫn dắt và
thoả ước tham gia do quần chúng dẫn dắt,
cũng như trong dân chủ hoá sôi động (mà có thể
thành công hay thất bại). Tôi nghĩ rằng chúng ta phải
xem xét các cuộc phản kháng Thiên An Môn hoặc như chúng
đă xảy ra trong pha chuẩn bị của dân chủ hoá
(tức là sự chuyển đổi đă chưa xảy
ra ở Trung Quốc và trong trường hợp đó sự
cấp tiến hoá của các sinh viên đă là có thể biện
minh được) hay như trong một chuyển đổi
thất bại (và trong trường hợp này sự cấp
tiến hoá có thể dẫn đến thất bại)[2].
Những bài học thành công của sự huy động
Thiên An Môn trong năm 1989 là rất hữu ích, nhưng các bài
học về sự thất bại của nó cũng
đáng xem xét để tránh những cạm bẫy như
vậy.
III. MỘT CHIẾN LƯỢC
CHO DÂN CHỦ HOÁ Ở VIỆT NAM
Việt Nam và các nước xă hội chủ nghĩa trước
kia (đặc biệt Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa) có nhiều
điểm giống nhau nhưng cũng có nhiều điểm
khác nhau. Trước khi thảo luận một chiến lược
cho dân chủ hoá ở Việt Nam, hăy để tôi quay lại
một sự phát triển sớm của Việt Nam vào
đầu thế kỷ trước.
Có thể bạn chưa bao giờ nghe về Phan Châu
Trinh. Ông sinh ngày 9 tháng Chín 1872, và qua đời vào ngày 24 tháng
Ba 1926. Từ 1905 đến 1907 ông đă bày tỏ những
ư tưởng của ḿnh về đấu tranh bất bạo
động cho dân chủ và dân quyền (các quyền con người)
ở Việt Nam mà tôi sẽ quay lại muộn hơn. Các
cuộc bạo động chống-thuế đă nổ ra
ở miền Trung Việt Nam trong năm 1908. Bất chấp
sự thực rằng Phan Châu Trinh đă kiên tŕ về các phương
pháp bất bạo động, ông đă bị vu cáo kích
động công chúng tham gia nổi loạn và ông đă bị
bắt và bị kết án tử h́nh. Do sự can thiệp của
Ligue des Droits de l’Homme (Liên đoàn các Quyền Con người)
án tử h́nh đă được thay đổi thành chung
thân và muộn hơn thành quản thúc tại gia trong một
làng, rồi ông được thả trong năm 1910 và bị
trục xuất sang Pháp. Từ tháng Tư 1911 ông đa sống
lưu vong mười bốn năm. Ông đă trở lại
Saigon năm 1925 và đă mất vào ngày 24 tháng Ba 1926.
Các ư tưởng của Phan Châu Trinh để đấu
tranh cho dân chủ và nhân quyền có thể được
tŕnh bày lại ngắn gọn trong 5 khẩu hiệu (chính
sách hay chiến lược) của ông mà chúng tôi, Diễn
đàn Xă hội Dân sự (DĐXHDS), đă lấy làm của
ḿnh:
(Một chiến lược để) Xây dựng Dân chủ
(gồm):
1. Thực thi Dân Quyền
2. Chấn hưng Dân Khí
3. Nâng cao Dân Trí
4. Cải thiện Dân Sinh
Phan Châu Trinh đă là một nhà tư tưởng tân tiến
đến kinh ngạc về hiện đại hoá. Hăy bắt
đầu với các chính sách thứ tư và thứ năm
của ông kể từ dưới lên: “Cải thiện Dân
Sinh” và “Nâng cao Dân Trí”. Chúng đă không chỉ là các tư tưởng
của ông, mà bản thân ông cùng các bạn đă bắt
đầu một chương tŕnh để đưa
chúng vào thực tiễn. Bằng việc lập các trường
học, các hiệp hội, các công ty và cổ vũ những
người khác làm vậy, ông đă nêu gương cho những
người khác bằng việc cổ vũ nhân dân tạo
ra cái gọi là “các nguồn lực hành động”, có thể
nói như vậy, mượn ngôn ngữ của lư thuyết
hiện đại hoá mới: nguồn lực vật chất
(thiết bị, các phương tiện, và thu nhập), nguồn
lực trí tuệ (sự hiểu biết, các kỹ
năng, và thông tin) và nguồn lực kết nối (các mạng
trao đổi và giao diện liên lạc) ở mức cơ
sở, căn bản [Welzel 2013, tr. 46].
Trong một tiểu luận gần đây [Nguyen 2017], tôi
đă ánh xạ các ư tưởng của Phan Châu Trinh hơn một
thế kỷ trước vào các ư tưởng của các lư
thuyết tân hiện đại hoá[3]. Tôi đă cho thấy rằng
các chính sách thứ tư và thứ năm của Phan tương
ứng với “các nguồn lực hành động” của
lư thuyết tân hiện đại hoá ở mức cơ sở
và rằng các giá trị được chính sách thứ ba của
Phan, “Chấn hưng Dân Khí” tạo ra, tương ứng với
các giá trị giải phóng trong mức văn hoá, động
cơ thúc đẩy, tiếp theo của lư thuyết đó,
các giá trị này thúc đẩy và cổ vũ các hoạt
động phong trào xă hội (ở một mức trên về
hành động, được bày tỏ bởi chính sách thứ
hai “Thực thi Dân Quyền”). Và các hoạt động phong
trào xă hội về “Thực thi Dân Quyền, tức là bạn
(và mọi người) cứ thực hiện các quyền
đó của ḿnh mà không đợi bất kể ai (chính quyền,
đảng cầm quyền hay bất cứ tổ chức
hay cá nhân nào khác) cho phép bạn làm việc đó trong cuộc
sống hành ngày. Cách sống chủ động này gây ra các
áp lực liên tục lên các nhà chức trách để cung cấp
các đảm bảo pháp lư cho (hay thể chế hoá về)
các quyền tự do và đảm bảo rằng các quyền
tự do đó được tôn trọng trong đời sống
hàng ngày, tức là, các quyền tự do đó là các quyền
được hưởng hay các quyền công dân ở mức
trên cùng (sự trao quyền đó là bản chất của
dân chủ hoá mà có thể được thực hiện từng
phần ngay cả trong ḷng của một chế độ
độc tài và thậm chí cũng phải được
thực hiện trong các nền dân chủ trưởng thành
v́ số các quyền con người là vô tận). Xă hội
dân sự dày, sống động và bao gồm (inclusive)
này[4] là cốt yếu không chỉ trong quá tŕnh dân chủ hoá
dẫn tới sự chuyển đổi dân chủ, mà cả
trong sự củng cố dân chủ nếu sự chuyển
đổi đă xảy ra.
Đáng tiếc, trong hơn một thế kỷ qua Việt
Nam đă không theo chiến lược khôn ngoan của Phan và
ngày nay chúng ta vẫn chịu đau khổ dưới chế
độ độc tài Cộng sản. Chúng tôi thử
tŕnh bày lại chiến lược đó và bổ sung nó với
9 nguyên tắc để h́nh thành một chiến lược
mạch lạc và cố kết phù hợp với thời
đại của chúng ta.
Phan Châu Trinh đă là một chiến sĩ bất bất
bạo động kiên định và nhất quán cho dân chủ
và các quyền con người. Ông đă chấp nhận các
phương pháp bất bạo động ngay từ 1905,
cùng thời như Mahatma Gandhi (1906); Phan đă trẻ hơn
Gandhi 3 tuổi. Sự trùng hợp này có thể không phải
là một sự ngạc nhiên, tôi nghĩ, bởi v́ cả
hai vị đă bị ảnh hưởng sâu sắc bởi
các ư tưởng bất bạo động của các tư
tưởng Ấn Độ được bày tỏ vài
ngàn năm trước, trong các giáo lư của Buddha được
truyền bá chẳng hạn bởi Dalai Lama và thầy Thich
Nhất Hạnh trong thời đại chúng ta.
Bất bạo động là một trong những nguyên tắc
chỉ đạo các hành động của chúng ta trong xă hội
dân sự Việt Nam nói chung, và nhất là trong DĐXHDS.
Chiến lược của chúng ta cho dân chủ hoá ở
Việt Nam gồm 5 chính sách được nhắc tới
ở trên và 9 nguyên tắc sau.
Chúng tôi, DĐXHDS, tuân theo 9 nguyên tắc (hay các giá trị
cốt lơi) trong cuộc đấu tranh để biến
đối chế độ toàn trị ở Việt Nam
thành một nền dân chủ đích thực một cách hoà
b́nh. Chín nguyên tắc này là:
1. Tính hợp pháp: DĐXHDS và các thành viên của nó hoạt
động một cách hợp pháp, tôn trọng các luật,
không đấu tranh chống lại nhà nước[5]. Tính hợp
pháp được hiểu ở đây như sự tuân thủ
các hiệp ước quốc tế mà Việt Nam đă
tham gia, hiến pháp, các luật và các quy chế khác của
nhà nước không mâu thuẫn với các quy định cao
hơn (theo thứ tự nghiêm ngặt được Hiến
pháp và các luật Việt Nam quy định rơ: các hiệp ước
quốc tế, hiến pháp, các luật, các nghị định
của chính phủ, các thông tư của các bộ chuyên ngành).
Nói cách khác, tính hợp pháp bao gồm cả sự bất
tuân đối với những quy định của nhà nước
mà mâu thuẫn với quy định ở mức cao hơn,
theo thứ tự từ cao xuống: các hiệp ước
quốc tế, hiến pháp, các luật, …
2. Tính tự trị: tất cả các thành viên của
DĐXHDS có các quyền và các nghĩa vụ ngang nhau trong hoạt
động của DĐXHDS, không ai có thể yêu cầu một
thành viên làm cái thành viên đó không muốn. Mỗi thành viên
(hay nhóm thành viên) hành động một cách tự trị với
tính sáng tạo của ḿnh, sáng kiến của ḿnh theo cách
riêng của ḿnh nhằm để đạt được
mục tiêu của DĐXHDS, nhưng phải chấp nhận
các giá trị cốt lơi và các nguyên tắc của DĐXHDS
và điều này không loại trừ các hoạt động
cùng nhau.
3. Tên thật: tất cả các thành viên của DĐXHDS
sử dụng tên thật trong các hoạt động của
DĐXHDS; bút-danh, nghệ-danh là có thể chấp nhận
được nếu nó có thể nhận diện rơ người
có bút danh hay nghệ danh ấy. Không tên-giả hay tên-sai nào
được chấp nhận trong các hoạt động
của DĐXHDS. Việc giữ tính chính trực là một
đ̣i hỏi tối quan trọng.
4. Tính công khai: DĐXHDS là mở và hoạt động
công khai. Chẳng cần giấu giếm thứ ǵ. Việc
này cũng áp dụng cho mỗi thành viên trong các hoạt
động của DĐXHDS.
5. Bất bạo động: DĐXHDS và các thành viên của
nó tôn trọng triệt để bất bạo động.
Bất bạo động có hai khía cạnh. Thứ nhất,
DĐXHDS và các thành viên của nó không sử dụng bất
kể phương tiện bạo lực nào để
đạt mục tiêu của nó. Thứ hai, DĐXHDS và các
thành viên của nó sử dụng tất cả các biện
pháp bất bạo động và pháp lư trong các hoạt động
của họ và cùng nhau với những người hay các
tổ chức khác để thuyết phục những người
chủ trương bạo động để họ từ
bỏ chính sách bạo động của họ nhằm
ngăn chặn các hành động bạo lực của bất
cứ ai hay tổ chức nào. Bạo lực cũng gồm
lời nói xấu, hận thù, các h́nh thức khác kích động
bạo lực,... và phải bị loại trừ.
6. Khoan dung: nguyên tắc để chấp nhận và tôn
trọng các ư kiến khác nhau, đặc biệt các ư kiến
của các thiểu số, phải được tuân thủ
nghiêm ngặt.
7. Chân thật: Tất cả thông tin cần được
kiểm tra chéo nhằm đảm bảo rằng nó chính xác
nhất có thể. Sự bóp méo, sự làm giải, sự giả
mạo, những lời nói dối là không thể chấp nhận
được.
8. Sự tin cậy: Tin cậy lẫn nhau là một nguyên
tắc quan trọng. Nó không khuyến khích bất cứ thủ
tục nào hay biện pháp nào gây ra sự nghi ngờ.
DĐXHDS không sợ sự xâm nhập của bất kể
lực lượng nào (kể cả những người
cộng sản và các lực lượng an ninh)[6]. Tư
cách thành viên của họ thậm chí được hoan
nghênh nếu họ chấp nhận các mục tiêu, các giá trị
và các nguyên tắc của DĐXHDS như bất kể thành
viên nào khác.
9. Đoàn kết: tinh thần đoàn kết được
duy tŕ trong các hoạt động của các nhóm cũng như
của DĐXHDS như một toàn thể; đoàn kết với
các nhóm hay các tổ chức khác, nhất là khi một thành
viên của các nhóm đó hay bất kỳ ai khác bị sách
nhiễu hay bị ngược đăi.
DĐXHDS, được thành lập ngày 23 tháng Chín 2013 bởi
những người đă kư Kiến nghị 72, không phải
là một tổ chức có thứ bậc, nó là một mạng
phẳng, một mạng tự-tổ chức chia sẻ những
giá trị, các nguyên tắc và mục tiêu chung. Nó khuyến
khích sự chồng lấn, tức là một người
có thể là thành viên của nhiều nhóm. Nói cách khác, nó thử
là một mạng ô dù (umbrella network) của các mạng được
kết nối một cách lỏng lẻo. Và chiến lược
cho dân chủ hoá ở Việt Nam nêu trên được
DĐXHDS công bố trong năm 2013.
Không cần phải nói, rằng trong mục tiêu, các giá trị,
và các nguyên tắc nêu trên ta có thể thấy nhiều đặc
tính của các tổ chức xă hội dân sự ở các nước
cộng sản trước kia ở đông và trung Âu và nơi
khác trên thế giới, kể cả của các tổ chức
trong khu vực của chúng ta [Hsiao 2006].
Chúng tôi nghĩ t́nh h́nh hiện tại của chúng tôi khá
giống t́nh h́nh của Đài Loan trong nửa đầu của
những năm 1980 trước chuyển đổi dân chủ
của nó. Khi đó đảng cai trị ở Đài Loan,
Quốc Dân Đảng, đă là một đảng Leninist
và nền kinh tế của Đài Loan đă là một nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đảng Cộng
sản Việt Nam hiện nay vẫn là một đảng
Leninist và nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa từ ít nhất 15-20
năm nay. Chúng tôi đă học những kinh nghiệm của
các nước xă hội chủ nghĩa trước kia ở
Đông Âu cũng như những kinh nghiệm từ Đài
Loan, Hàn Quốc, Phillippines để tŕnh bày chiến lược
được nêu ở trên.
Tóm lại, một chiến lược khả thi cho dân
chủ hoá ở Việt Nam là để phát triển một
xă hội dân sự dày, sinh động và bao hàm với 5
chính sách và 9 nguyên tắc được nêu ở trên nhằm
để gây áp lực liên tục lên các nhà chức trách và
buộc họ dân chủ hoá (qua các cuộc thương lượng
hay qua một sự đoạn tuyệt).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. [Anderson 1999], Lisa
Anderson (ed.), Transitions to Democacy, Columbia University Press, 1999, bản
tiếng Việt 2015.
2. [Dai 1999], Đới
T́nh, Thiên An Môn in Perspective: Ten Years Later, panel presentation at
COMMUNISM'S NEGOTIATED COLLAPSE: THE POLISH ROUND TABLE TALKS OF 1989, TEN
YEARS LATER. A Conference
at the University of Michigan, April 7-10, 1999; bản tiếng Việt
2013.
3. [Donatella 2014], Donatella
della Porta, Mobilizing for Democracy: Comparing 1989 and 2011, Oxford
University Press, 2014; Bản tiếng Việt 2019, Huy động
cho Dân chủ: So sánh 1989 và 2011.
4. [Donatella 2018] Donatella
della Porta, Teije Hidde Donker, Bogumila Hall, Emin Poljarevic and Daniel P.
Ritter, Social Movement and Civil War: When Protests for Democacy failed,
Routlege, 2018; Bản tiếng Việt 2018, Phong
trào Xă hội và Nội chiến: Khi các cuộc phản kháng
cho Dân chủ thất bại.
5. [Doorenspleet 2019]*, Renske
Doorenspleet, Rethinking Value of Democracy, Palgrave Macmillan, 2019.
6. [Hsiao 2006], Hsin-Huang
Michael Hsiao (ed.), Asian New Democracies: The Philippines, South Korea and
Taiwan Compared, Taiwan Foundation for Democracy, 2006. Bản tiếng
Việt, 2015.
7. [Lim 2014]* Luisa Lim, The
People’s Republic of Amnersia - Tienanmen Revisited, Oxford University Press
(2014).
8. [Nguyen 2017], Nguyễn
Quang A, “Phan
Châu Trinh và Thuyết hiện đại hoá mới”
9. [Welzel 2013] Christian
Welzel Freedom Rising: Human Empowerment and the Quest for Emancipation
(Cambridge University Press, 2013.) Bản tiếng Việt, 2017, Tự
do đang Lên
10. [Triệu 2009], Prisoner
of the State: the secret Journal of Premier Triệu Tử Dương
Simon & Scuster (2009), pp. 3-87. Bản tiếng Việt 2019, Hồi Kư Triệu
Tử Dương
(Với ngoại lệ của hai cuốn sách này*, bảy
cuốn được nhắc tới ở trên cộng cả
tá cuốn khác về dân chủ hoá là sẵn có bằng tiếng
Việt như một cố gắng để Nâng cao Dân
Trí).
CHÚ THÍCH
[1] Tất cả các trích dẫn không có dẫn chiếu
đều là từ [Zhao 2009].
[2] Giả như các Đảng viên lăo thành và nhất là
Đặng đă ủng hộ các cải cách chính trị của
Triệu, một chuyển đổi dân chủ đă có thể
bắt đầu. Quan sát này có thể cho biết rằng
quả thực đây đă là một chuyển đổi
thất bại. Và sự cực đoan hoá đă xảy ra ở
cả hai bên như được cho thấy trong mô tả
ngắn.
[3] Được Donald Inglehart và Christian Welzel phát triển.
[4] Một xă hội dân sự dày, sinh động và bao
hàm là quan trọng trong một quá tŕnh dân chủ hoá thành công
và để tránh “dân chủ hoá hỗn loạn” (xem, thí dụ
[Donatella 2014, pp. 237-267] và sự cảnh báo của
[Doorenspleet 2019, p. 70; 240] rằng “quá tŕnh dân chủ hoá là nguy
hiểm” mà có thể xảy ra trong trường hợp một
xă hội dân sự (hay các phong trào xă hội) hung hăng và
loại trừ (exclusive).
[5] Như chính quyền Việt Nam thường vu cáo các
nhà bất đồng chính kiến và các tổ chức xă hội
dân sự (CSO) chủ trương dân chủ và nhân quyền.
Sự vu cáo đó là vô nghĩa, bởi v́ nếu ta hiểu
một cách đúng đắn nhà nước như một
quan niệm gồm bốn yếu tố (theo một
nghĩa Weberian được nâng cao) và các mối quan hệ
của chúng: 1)một lănh thổ nhà nước, 2) một
dân cư nhà nước, 3) một bộ máy nhà nước
và 4) các ư tưởng và dự án nhà nước. Mặt
khác, chiến đấu chống lại một chính quyền
hay các chính sách của nó là một QUYỀN, nếu chúng ta sử
dụng thuật ngữ chính quyền như một tập
hợp cụ thể của những người đàn
ông và đàn bà chiếm các vị trí trong một bộ máy
nhà nước (nhất là, các quan chức cấp cao được
bầu và/hoặc được chỉ định).
[6] Chúng tôi có một chính sách công khai để lôi kéo họ,
để cải đạo cộng sản của họ
(thực ra, nhiều đảng viên có đầu óc cải
cách đă là các sáng lập viên của chúng tôi). Chúng tôi thử
biến đổi các chiến thuật cộng sản nổi
tiếng như dân vận thành đảng vận, an ninh vận,
binh vận để cải biến họ. Và đảng
cộng sản đă thử hết sức để chống
lại chính sách đó.
N.Q.A.
Trích:
BVN 22.05.19
Mục
Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển
điện tử:
hay
www.dcvapt.net
Email: dcvapt@gmail.com
Hiệp Hội Dân Chủ và
Phát Triển Việt