DC&PT -
Thời Sự 2019
Trần Quang biên dịch
Từ khi được
công bố vào năm 2013, Sáng kiến Vành đai và Con đường
(BRI) đă trở thành dự án chính sách đối ngoại
đặc trưng của Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận B́nh. Sáng kiến này thể hiện những tham vọng
ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở trong và ngoài nước
và đă chính thức được đưa vào Hiến
pháp Trung Quốc tại Đại hội XIX của Đảng.
Cũng trong Đại hội này, Tập Cận B́nh
đă đưa ra tuyên bố về “kỷ nguyên mới” và
“sự phục hưng vĩ đại của dân tộc
Trung Hoa”. BRI là biểu tượng của chính sách đối
ngoại tự tin hơn của Trung Quốc, khác xa chiến
lược khiêm tốn “giấu ḿnh chờ thời” mà từ
lâu đă là đặc trưng của sự can dự toàn cầu
của Bắc Kinh.
BRI hiện bao trùm hơn 70 quốc gia khắp châu Á, châu
Âu, châu Phi, Mỹ Latinh và châu Đại Dương. Những
kế hoạch trong tương lai thậm chí c̣n tham vọng
hơn, với dự định mở rộng sang Bắc
Cực, không gian mạng và thậm chí là cả vũ trụ.
Quy mô và tham vọng của sáng kiến đă thu hút được
rất nhiều sự chú ư, xuất hiện trong các tin chính
trên toàn cầu. Các viện nghiên cứu, ấn phẩm, tổ
chức tư vấn và công ty đầu tư t́m cách phân
tích và tận dụng BRI đă xuất hiện với tốc
độ đáng kinh ngạc.
Tuy nhiên, mặc dù BRI xuất hiện nhiều trong các cuộc
thảo luận về sự can dự toàn cầu của
Trung Quốc, song nhiều chuyên gia và nhà hoạch định
chính sách vẫn bất đồng về cách diễn giải.
BRI là một chiến lược toàn cầu hay chỉ là một
sáng kiến liên vùng? Liệu có giới hạn nào cho sự
mở rộng của BRI hay không? Làm thế nào để
các quốc gia và các công ty quốc tế có thể tham gia sự
tăng trưởng và phát triển của sáng kiến này?
Sự chú ư tăng lên cũng dẫn tới việc BRI bị
xem xét kỹ lưỡng hơn. Những câu hỏi mới
về tính minh bạch và bền vững của sáng kiến
đă xuất hiện khi các dự án BRI đă hoàn thiện.
Các quốc gia ngày càng quan ngại rằng sức mạnh mềm
của Trung Quốc được thúc đẩy thông qua
BRI có thể sớm trở thành sức mạnh cứng. Tại
Trung Quốc, một số người phàn nàn rằng nước
này đă vươn ra quá xa và mở rộng sáng kiến quá
nhanh, bỏ qua các vấn đề trong nước để
ưu tiên các cơ hội kinh doanh và phát triển ở nước
ngoài.
Tất cả những câu hỏi và những mối quan
ngại này đều ảnh hưởng trực tiếp
tới tương lai của sáng kiến. Bài viết này tập
hợp quan điểm của các học giả thuộc 3
trung tâm nghiên cứu khác nhau nhằm xem xét một số vấn
đề cấp bách nhất xung quanh BRI. Mục đích là
làm sáng tỏ những quan điểm khác nhau và xác định
các lĩnh vực đồng thuận và bất đồng
về các vấn đề chính xung quanh BRI, được
tóm tắt trong kết luận chung.
Paul Haenle thuộc Trung tâm Chính sách
Toàn cầu Carnegie-Tsinghua xem xét triển vọng từ phía Mỹ.
Dmitri Trenin và Alexander Gabuev thuộc Trung tâm
Carnegie Moskva đưa ra những diễn giải của
Nga.
Feng Yujun và Ma Bin thuộc Trung tâm Nghiên cứu
Nga và Trung Á, Đại học Phúc Đán giải thích quan
điểm của Trung Quốc về BRI.
Bài viết này là sản phẩm của nhiều cuộc
thảo luận, tham vấn và hội thảo được
tổ chức ở Bắc Kinh giữa các học giả
đóng góp ư kiến. Như vậy, đây không chỉ là
tuyên bố về quan điểm của mỗi quốc gia
mà c̣n là sự phản ánh tiến tŕnh hợp tác giữa 3
trung tâm và cũng là nỗ lực nhằm tập hợp nhiều
quan điểm trên tinh thần xây dựng. Cách tiếp cận
này cho phép bài viết xác định các lĩnh vực mà các
bên cùng quan tâm và có khả năng hợp tác, cũng như
làm sáng tỏ các lĩnh vực bất đồng đ̣i hỏi
các bên phải nỗ lực hơn nữa.
QUAN ĐIỂM CỦA MỸ: CÔNG NHẬN
NHỮNG ĐIỂM TÍCH CỰC, GIẢI QUYẾT NHỮNG
THIẾU SÓT
BRI là dự án chính sách đối ngoại đặc trưng
trong thời đại Tập Cận B́nh. Nó là biểu tượng
của chính sách đối ngoại quyết đoán hơn
của Trung Quốc, khác xa chiến lược khiêm tốn
“giấu ḿnh chờ thời” mà từ lâu đă là đặc
trưng của sự can dự toàn cầu của Bắc
Kinh. Trung Quốc đă lấy BRI làm bằng chứng cho thấy
nước này đă đảm nhận trách nhiệm lớn
bằng việc đóng vai tṛ quan trọng trong việc cung
cấp hàng hóa công cộng, chẳng hạn như cơ sở
hạ tầng, và thúc đẩy sự kết nối toàn cầu.
Thông điệp này là một phần trong nỗ lực
lớn hơn của Trung Quốc nhằm tự thể hiện
ḿnh là một “bên liên quan có trách nhiệm”. Mặc dù hầu
như không ai nghi ngờ việc Trung Quốc đă trở
thành một bên tham gia trong hệ thống quốc tế, song
nước này c̣n có thể làm nhiều hơn để thực
sự có được một cách tiếp cận có trách
nhiệm. Sự cách biệt này đặc biệt rơ ràng
trong BRI.
Cần tuyên dương Bắc Kinh v́ vai tṛ của họ
trong việc khôi phục mối quan tâm đối với sự
cần thiết phải có các khoản đầu tư quy
mô lớn vào cơ sở hạ tầng và tính kết nối
trên thế giới. BRI gây ấn tượng với tầm
nh́n về quy mô và tầm với của nó.
Tuy nhiên, cách tiếp cận và các lợi ích của Trung
Quốc trong việc theo đuổi BRI đă vấp phải
sự chỉ trích ngày càng tăng từ phía Mỹ, các quốc
gia phát triển khác ở phương Tây và thậm chí là các
nước đang phát triển thuộc phạm vi của
BRI v́ thiếu tính minh bạch, tính bền vững kinh tế
và chất lượng cao. Thêm vào các mối quan ngại này
là những mối lo âu về việc đằng sau BRI có
thể là những động cơ thúc đẩy mang tính
chiến lược, có khả năng làm thay đổi bối
cảnh địa chính trị và các tiêu chuẩn quản trị
toàn cầu của cộng đồng quốc tế.
Trong khi Mỹ không nêu phản đối ư tưởng
phát triển cơ sở hạ tầng quy mô lớn như
được thúc đẩy thông qua BRI, nhiều người
ở Washington nh́n nhận sáng kiến này với thái độ
hoài nghi do hệ quả của cả những thành công lẫn
những thất bại của nó. Việc truyền tải
thông điệp kém của Bắc Kinh càng làm phức tạp
thêm vấn đề này. Có thể thấy rơ điều
này nguy hiểm như thế nào. Nếu các chuyên gia và các nhà
hoạch định chính sách ở Washington thống nhất
rằng Mỹ cần phản đối sáng kiến này,
th́ nó sẽ chỉ trở thành một vấn đề nữa
trong mối quan hệ song phương vốn ngày càng mang
tính cạnh tranh và gây nhiều bất đồng.
Thách thức đối với Mỹ sẽ là giải
quyết những thiếu sót rơ ràng của sáng kiến,
đồng thời công nhận những tác động tích
cực của nó và để ngỏ cơ hội hợp
tác trong tương lai.
Những điểm tích cực
Nhiều nhà quan sát mô tả BRI chỉ là một mánh khóe
địa chính trị của Trung Quốc nhằm thống
trị thế giới, hay là biểu hiện của chính
sách “kinh tế trục lợi”, theo cách nói của cựu
Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson. Tuy nhiên, thực tế
là sáng kiến này không hoàn toàn xung đột với lợi
ích của Mỹ, và trong một số trường hợp
thậm chí c̣n có thể hỗ trợ cho những lợi
ích đó.
Việc đầu tư cơ sở hạ tầng hay
thúc đẩy sự kết nối toàn cầu ở các nước
đang phát triển vốn chẳng có ǵ sai. Quả thật,
Mỹ có lợi khi ủng hộ cả hai mục tiêu này. Nếu
muốn h́nh thành một phản ứng cố kết đối
với BRI th́ Washington phải thừa nhận những
lĩnh vực mà ở đó sáng kiến này có thể phù hợp
với lợi ích của Mỹ.
Mỹ cũng phải thừa nhận rằng BRI nổi
lên nhanh chóng như vậy không chỉ v́ sáng kiến này là một
ưu tiên đối với Tập Cận B́nh, mà c̣n v́ nhu cầu
thực sự đối với những ǵ Trung Quốc
mang lại là thật. Theo Ngân hàng phát triển châu Á, đến
năm 2030, chỉ riêng châu Á đă cần tới 26.000 tỷ
USD cho đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm
duy tŕ tốc độ tăng trưởng hiện tại.
Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế, tại các khu vực
khác của BRI, như Mỹ Latinh và châu Phi, thiếu cơ sở
hạ tầng tương xứng là một trong những
rào cản lớn nhất đối với tăng trưởng
và phát triển. Khi xét tới quy mô của nhu cầu phát triển
cơ sở hạ tầng trên thế giới, BRI chỉ
như muối bỏ bể; tuy vậy, quy mô của nó vẫn
áp đảo những ǵ các nước khác đang làm nhằm
giải quyết thách thức này.
Thông qua BRI, Trung Quốc đă áp dụng cách tiếp cận
toàn diện đối với sự phát triển và can dự,
với việc đă có nhiều quốc gia tham gia sáng kiến
này. Chẳng hạn, Hội đồng học bổng
chính phủ Trung Quốc đă mở ra các chương tŕnh
học bổng và trợ cấp mới dành cho các học giả
trẻ đến từ các quốc gia thuộc BRI. Những
chương tŕnh này hỗ trợ sinh viên tham gia các chương
tŕnh đào tạo đại học, sau đại học
và ngôn ngữ tại các trường đại học hàng
đầu của Trung Quốc. Từ khi BRI được
triển khai, số lượng sinh viên Pakistan ở Trung Quốc
đă tăng từ 5.000 trong năm 2013 lên 22.000 vào năm
2018. Trong Diễn đàn hợp tác Trung Quốc-châu Phi
năm nay, Bắc Kinh đă tăng mức đầu tư
dành cho đào tạo nghề và xây dựng năng lực.
Hơn nữa, Trung Quốc đă tập trung chú ư vào các
quốc gia và khu vực mới nổi, vốn thiếu
đáng kể các khoản đầu tư của phương
Tây. Các nhà quan sát phương Tây có xu hướng tập
trung vào các dự án có giá trị cao ở các nước lớn;
tuy nhiên, thành công lớn nhất của BRI được
cho là các khoản đầu tư có quy mô nhỏ hơn nhưng
có mục tiêu cụ thể ở các quốc gia đang phát
triển. V́ các nước này thường thiếu cơ sở
hạ tầng cần thiết, nên mỗi đồng nhân
dân tệ được đầu tư ở đây có lợi
ích cận biên lớn hơn so với ở các khu vực
phát triển hơn. Một con đường mới ở
Tajikistan hay một cây cầu ở Lào có thể không thu hút
nhiều sự chú ư từ bên ngoài nhưng lại góp phần
đáng kể cho việc hỗ trợ các nền kinh tế
địa phương và thúc đẩy tính kết nối.
Điều này không chỉ bảo đảm rằng hoạt
động đầu tư sẽ đạt được
kết quả lớn hơn, mà c̣n khuếch đại ảnh
hưởng của Trung Quốc. Khi Trung Quốc là quốc
gia duy nhất thể hiện sự quan tâm tích cực, các
quốc gia thuộc phạm vi của BRI tỏ ra sẵn
sàng hơn trong việc chấp nhận bất kỳ điều
khoản nào do Bắc Kinh đưa ra. Theo lời cựu Bộ
trưởng Thương mại Pakistan Khurram Dastgir Khan:
“Trung Quốc là lựa chọn duy nhất”.
Washington cũng có những quan ngại chính đáng về
BRI. Các dự án BRI quá thường xuyên có xu hướng vướng
vào tham nhũng, đồng thời thiếu nghiêm trọng
tính bền vững kinh tế, tính minh bạch pháp lư và sự
quản trị tốt. Cùng với nhau, những thiếu
sót này dẫn tới các dự án đe dọa chủ quyền,
các chuẩn mực và thông lệ dưới chuẩn trong
xuất khẩu, và gây quan ngại về những tác động
địa chiến lược của sáng kiến này. Những
t́nh cảm này đă được nêu ra trong một số
bài phát biểu của các thành viên cấp cao trong chính quyền
của Tổng thống Mỹ Donald Trump, trong đó có Phó Tổng
thống Mike Pence và Ngoại trưởng Mike Pompeo. Nếu
Trung Quốc không có hành động ǵ nhằm giải quyết
những vấn đề này, th́ các nước bên thứ
ba như Mỹ không khỏi nh́n nhận BRI với thái độ
hoài nghi, thay v́ coi đó là một cơ hội cộng tác.
Nợ và tính bền vững
Một yếu tố chính trong vấn đề này là cuộc
tranh luận xung quanh những tuyên bố cho rằng Trung Quốc
áp dụng ngoại giao bẫy nợ thông qua BRI, khiến
các nước đang phát triển lệ thuộc vào nợ
và sau đó chuyển sự lệ thuộc đó thành ảnh
hưởng địa chính trị.
Trung tâm Phát triển toàn cầu chọn ra 8 quốc gia
được coi là “đặc biệt có nguy cơ vỡ
nợ” do tham gia BRI của Trung Quốc. Những hành động
của Trung Quốc tại Sri Lanka, Pakistan và Malaysia có vai tṛ
trung tâm đối với các cuộc tranh luận về bẫy
nợ. Trung Quốc đă có được quyền vận
hành cảng Hambantota ở miền Nam Sri Lanka trong 99 năm
sau khi chi phí cho dự án này vượt ra ngoài tầm kiểm
soát, buộc Colombo từ bỏ quyền kiểm soát cảng
để đổi lấy một gói cứu trợ từ
phía Trung Quốc. Ở Pakistan, một cuộc khủng hoảng
tài chính đă làm gia tăng thái độ phản đối
các dự án thuộc Hành lang kinh tế Trung Quốc-Pakistan
(CPEC), một nhánh lớn của BRI. Lập luận về
bẫy nợ càng trở nên đáng tin cậy sau khi Thủ
tướng Malaysia Mahathir Mohamad hủy bỏ các dự án
BRI với tổng trị giá 23 tỷ USD và cảnh báo rằng
Trung Quốc có nguy cơ trở thành con mồi của “chủ
nghĩa thực dân phiên bản mới”.
Ngay cả đối với những người không
có xu hướng coi BRI là “con ngựa thành Troy” che giấu ảnh
hưởng của Trung Quốc hay là hiện thân của chủ
nghĩa đế quốc theo phong cách thế kỷ 19, sự
thiếu hụt tính bền vững này vẫn là nguyên nhân chủ
yếu gây quan ngại liên quan tới các dự án BRI.
Trung Quốc lập luận rằng các quốc gia vốn
không thể đảm đương gánh nặng về nợ
của các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn
ngay từ đầu không nên chấp thuận những dự
án như vậy. Tuy nhiên, các công ty Trung Quốc cũng có
trách nhiệm tiến hành trước những nghiên cứu
về rủi ro và tính khả thi trong kinh doanh để bảo
đảm rằng các quốc gia nhận đầu tư
sẽ thanh toán nghĩa vụ nợ và có năng lực hoàn
trả nợ. Khi xét tới môi trường kinh doanh và chính
trị phức tạp ở nhiều quốc gia đang
phát triển, nơi những dự án này được triển
khai, người ta thường phóng đại những khó
khăn trong việc tiến hành các phân tích kỹ lưỡng
cần thiết. Không thể bảo đảm tuyệt
đối thành công của bất kỳ dự án nào, ngay cả
với sự chuẩn bị kỹ lưỡng nhất;
tuy nhiên, việc số lượng các quốc gia thông báo rằng
họ đang phải chật vật với các khoản nợ
liên quan tới các dự án BRI ngày càng tăng cho thấy các
công ty Trung Quốc cần củng cố tiến tŕnh thực
hiện dự án của họ. Một phần công việc
cải thiện điều này xoay quanh việc gia tăng
tính minh bạch của dự án.
Tính minh bạch và sự
tham gia của nước ngoài
Sự thiếu minh bạch xoay quanh sáng kiến này là một
trong những nguyên nhân lớn nhất khiến Mỹ phản
đối việc thực hiện BRI. Sự mập mờ
khiến các công ty nước ngoài khó tham gia các dự án liên
quan đến BRI cho đến khi những dự án này khởi
công, và cũng có thể tạo ra mảnh đất màu mỡ
cho tham nhũng. Những quan ngại này không phải là đặc
trưng của riêng BRI mà c̣n được phản ánh trong
các tranh chấp thương mại và kinh tế rộng hơn
đang tiếp diễn giữa Mỹ và Trung Quốc về
sự công bằng và có đi có lại cho các công ty Mỹ hoạt
động tại Trung Quốc.
Trung Quốc tiếp tục khuyến khích đầu tư
bên ngoài nhằm giúp khắc phục t́nh trạng thiếu trầm
trọng nguồn vốn cần thiết cho việc hoàn thiện
tầm nh́n của nước này, nhưng giữa các bên muốn
tham gia và những cơ hội thực sự lại tồn
tại một khoảng cách. Tiêu chuẩn thấp, khó
khăn khi cạnh tranh trong quá tŕnh mua sắm, đấu thầu
và rủi ro của các khoản đầu tư là những
trở ngại hơn nữa đối với việc
tham gia. Sự hội tụ của những vấn đề
phức tạp làm tăng vẻ đáng tin của những
nhận thức hiện có rằng BRI là một sáng kiến
được “sản xuất tại Trung Quốc, sản
xuất cho Trung Quốc”, theo cách mô tả của Brian Hook,
Giám đốc hoạch định chính sách thuộc Bộ
Ngoại giao Mỹ.
Tham nhũng
Thiếu sự minh bạch làm gia tăng những quan ngại
rằng các dự án BRI có thể khuyến khích sự quản
trị yếu kém và trở thành những thỏi nam châm thu
hút tham nhũng. Theo Tổ chức minh bạch quốc tế,
nhiều quốc gia thuộc phạm vi của BRI vốn
đă nằm trong danh sách các nước tham nhũng nhất
thế giới. Bản chất không rơ ràng của các dự
án BRI khiến chúng trở thành mảnh đất màu mỡ
cho t́nh trạng tham ô và quản lư sai nguyên tắc. Trong
điều kiện như vậy, các nhà lănh đạo
chính trị ở các nước BRI có thể cho rằng những
dự án được Trung Quốc hậu thuẫn
đem lại lợi ích cho cả đôi bên. Các nhà lănh đạo
có thể tuyên bố rằng họ đang mang lại sự
phát triển trong khi vẫn ḅn rút ngân sách thông qua các khoản
“lại quả” và các giao dịch tài chính mờ ám.
Quả thật, đă có một vài ví dụ đáng chú ư
về t́nh trạng tham nhũng liên quan đến BRI.
Kyrgyzstan, việc một nhà máy điện do Trung Quốc
xây dựng không hoạt động được đă dẫn
tới việc bắt giữ 2 cựu thủ tướng
bị buộc tội nhận tiền “lại quả” từ
các công ty Trung Quốc phụ trách xây dựng.
Tại Malaysia, vụ bê bối 1MDB đang diễn ra
đă khiến 2 dự án đường ống lớn liên
quan đến BRI bị hủy bỏ, sau khi xuất hiện
thông tin rằng một công ty có liên hệ với cựu Thủ
tướng Najib Razak đă ḅn rút khoản tài trợ do Ngân
hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc cung cấp.
Địa chính trị và sự
quản trị toàn cầu
Chừng nào sự mập mờ vẫn c̣n là lẽ thường
trong các dự án BRI, th́ chừng đó Mỹ và các quốc
gia khác cùng tư tưởng vẫn sẽ khó ḷng nh́n nhận
sáng kiến này theo hướng tích cực. Không chỉ thúc
đẩy tham nhũng và làm trầm trọng thêm những
khó khăn về nợ của các nước đang phát
triển, sự thiếu minh bạch cũng làm gia tăng mối
nghi ngờ rằng BRI vận hành như một “con ngựa
thành Troy” che giấu ảnh hưởng của Trung Quốc.
Trung Quốc đều đặn nhắc lại rằng
họ “không có tính toán ǵ về địa chính trị” đối
với BRI. Tuy nhiên, quy mô của sáng kiến đồng
nghĩa với việc nó nhất thiết phải có những
tác động về địa chính trị. Khi điều
này kết hợp với sự thiếu minh bạch, những
tuyên bố của Trung Quốc về “hợp tác cùng thắng”
hay “cộng đồng chung vận mệnh” có vẻ không
chân thật, hay thậm chí là vỏ bọc nhằm che giấu
những ư định thực sự của sáng kiến.
Điều này đặc biệt đúng khi BRI được
coi là gián tiếp hoặc trực tiếp dẫn tới việc
thúc đẩy những giá trị mâu thuẫn với trật
tự toàn cầu hiện tại. Những trường hợp
gần đây, trong đó Hy Lạp và Hungary từ chối
chỉ trích Bắc Kinh v́ những hành vi vi phạm nhân quyền
hay những tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp của
họ Biển Đông minh họa cho những quan ngại như
vậy. Và trong khi các cuộc thảo luận về việc
Bắc Kinh xuất khẩu “mô h́nh Trung Quốc” có xu hướng
cường điệu hóa ư định của Trung Quốc
thúc đẩy BRI như một phương tiện nhằm
lật đổ trật tự quốc tế, th́ những
ví dụ như vậy, cũng như ảnh hưởng
ngày càng tăng của Bắc Kinh ở châu Âu thông qua sáng kiến
16+1 (một diễn đàn do Trung Quốc khởi xướng
mà qua đó, nước này can dự với các nước
Trung và Đông Âu), khiến các nhà quan sát bên ngoài ngày càng hoài
nghi.
Tương tự, thành phần Con đường tơ
lụa kỹ thuật số của BRI đóng vai tṛ đường
dẫn cho hoạt động xuất khẩu công nghệ
giám sát và quyền riêng tư của Trung Quốc. Điều
này bao gồm việc sử dụng phần mềm nhận
diện khuôn mặt ở Zimbabwe, các hệ thống tương
tự như chấm điểm tín dụng xă hội ở
Venezuela…
Một số dự án BRI nằm ở các vị trí chiến
lược cho thấy đă có sự tính toán về địa
chính trị. Ở eo biển Malacca, tuyến đường
giao thương có lưu lượng cao, từng là nguyên
nhân gây căng thẳng giữa Malaysia và nước láng giềng
Singapore, dự kiến có 3 cảng được xây dựng
trong khuôn khổ BRI, đem lại khả năng tiếp cận
trực tiếp tuyến đường này. Mặc dù tất
cả các cảng đều được lên kế hoạch
phục vụ mục đích thương mại chứ
không phải quân sự, nhưng những tác động chiến
lược của việc Trung Quốc tài trợ cho các cảng
ở tất cả các địa điểm bị tranh chấp
này đủ để khiến một số người
lo ngại rằng sự hiện diện của Trung Quốc
trong khu vực sẽ phát triển vượt ra ngoài các cảng
thương mại.
Trong bối cảnh căng thẳng giữa Mỹ và
Trung Quốc gia tăng, việc những nhà quan sát hoài nghi hơn
ở Washington coi BRI là một chiến lược nhằm
mục đích thay thế Mỹ trở thành cường quốc
vượt trội trên thế giới và củng cố sự
trỗi dậy của Trung Quốc là không hề đáng ngạc
nhiên.
Những tác động
Các nhà hoạch định chính sách Mỹ không được
để những thất bại rơ ràng của BRI che lấp
những thành công của nó. Bất chấp những quan ngại
nhiều vô số, việc phản đối BRI theo phản
xạ sẽ gây phản tác dụng.
Thứ nhất, một phản ứng như vậy sẽ
làm gia tăng căng thẳng không cần thiết giữa
Mỹ và Trung Quốc và củng cố những nhận thức
của Trung Quốc cho rằng Mỹ t́m cách kiềm chế
Trung Quốc, một quan điểm vốn đă rất thịnh
hành ở Bắc Kinh. Thứ hai, nó sẽ chỉ làm trầm
trọng thêm những quan ngại hiện tại về BRI.
Nếu Trung Quốc vẫn là lựa chọn duy nhất ở
các quốc gia thuộc phạm vi của BRI, th́ nhiều khả
năng họ sẽ chấp nhận các điều khoản
của Bắc Kinh mà không thắc mắc. Thứ ba, nó sẽ
hạn chế khả năng của Mỹ trong việc thúc
đẩy BRI theo hướng tích cực bằng cách loại
Mỹ khỏi các cuộc thảo luận xoay quanh sáng kiến
này. Nếu Trung Quốc cho rằng Mỹ phản đối
những sáng kiến của họ theo phản xạ, th́ nước
này ít có khả năng nghiêm túc nh́n nhận những mối
quan ngại chính đáng của Mỹ về sáng kiến này.
Cả Mỹ lẫn Trung Quốc đều có thể
rút ra những bài học từ Ngân hàng đầu tư cơ
sở hạ tầng châu Á (AIIB), một ngân hàng phát triển
đa phương do Trung Quốc khởi xướng và ban
đầu bị Mỹ phản đối. Khi Bắc Kinh
lần đầu tiên đưa ra đề xuất về
thể chế này, quan niệm của Trung Quốc dường
như không muốn áp dụng những thông lệ tốt nhất
và các tiêu chuẩn cao của quốc tế. Các nhà hoạch
định chính sách Mỹ tỏ ra hoài nghi về tổ chức
này ở dạng ban đầu của nó, và do đó đă
t́m cách can ngăn các đồng minh và đối tác của
ḿnh tham gia AIIB. Rốt cuộc, Mỹ đă không thuyết
phục được các đối tác của ḿnh đứng
ngoài nhóm này, điều bộc lộ những giới hạn
của sức ảnh hưởng của Mỹ đối
với Trung Quốc, hạn chế khả năng của Mỹ
trong việc gây ảnh hưởng hơn nữa đối
với ngân hàng này và khiến Washington bị cô lập. Tuy
nhiên, thái độ phản đối ban đầu của
Mỹ có thể đă có một số tác động tích cực,
khi mà theo những thông tin thu thập được, ngân
hàng này đă chứng tỏ là một thể chế chuyên
nghiệp. Việc Trung Quốc sẵn sàng làm việc với
một nhóm gồm nhiều quốc gia phát triển cũng
như đang phát triển (vào thời điểm AIIB chính
thức ra mắt, đă có 57 quốc gia tham gia, trong đó
có Đức, Anh và Pháp) nhằm đưa những thông lệ
tốt nhất của quốc tế vào AIIB cũng đă
giúp bảo đảm cho sự biến đổi của
ngân hàng này thành một thể chế tiêu chuẩn cao như
hiện nay. Dưới sự lănh đạo của Kim Lập
Quần, thể chế này đă xây dựng danh tiếng là
một ngân hàng phát triển đa phương có năng lực
với những mục đích hợp pháp nhằm cải
thiện sự phát triển xă hội và kinh tế trên khắp
châu Á.
Đối với Bắc Kinh, bài học rất rơ ràng. Họ
cần t́m cách rút kinh nghiệm từ những thành công của
AIIB, trong đó có việc bổ nhiệm một nhà lănh
đạo minh bạch và dễ tiếp cận nhằm giúp
các nhà phê b́nh hiểu rơ những thất bại của BRI
và thúc đẩy những thành công của nó. Các nhà hoạch
định chính sách Mỹ cần hiểu rơ rằng nếu
họ muốn giải quyết các mối quan ngại về
BRI, th́ việc công khai phản đối sẽ chỉ hạn
chế khả năng của Washington trong việc can dự
với Trung Quốc trên tinh thần xây dựng trong các vấn
đề liên quan đến BRI và sự quản trị
toàn cầu.
Kết luận
Đă hơn 5 năm trôi qua kể từ khi Tập Cận
B́nh công bố BRI. Trong nhiều trường hợp, BRI
đă đem lại cho các quốc gia đang phát triển những
kết quả tích cực, và Trung Quốc cần được
khen ngợi v́ đă làm sáng tỏ nhu cầu về đầu
tư cơ sở hạ tầng và tính kết nối trên
toàn thế giới. Tuy nhiên, theo quan điểm của Mỹ,
các dự án BRI thường xuyên không thể hiện được
cam kết đối với tính minh bạch, sự công bằng,
tính bền vững và sự quản trị tốt. Không có
những đặc điểm này, trong môi trường
căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Mỹ,
các chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách ở
Washington có nhiều khả năng nh́n nhận BRI với con
mắt hoài nghi, thậm chí thù địch. Quả thật,
những quan điểm như vậy vốn đă phổ
biến ở Mỹ.
Bất kỳ cách tiếp cận cố kết nào về
chính sách đối với BRI cũng phải đáp ứng
những mối quan ngại này mà không để cho chúng che
lấp những lĩnh vực rơ ràng phù hợp với các lợi
ích của Mỹ. Thách thức đối với Mỹ sẽ
là phát triển một chiến lược chủ động
đối với BRI, công nhận các tác động tích cực,
giảm thiểu các khía cạnh tiêu cực và đồng thời
thúc đẩy các lợi ích của Mỹ. Tuy nhiên, quan
điểm của Washington về BRI sẽ không chỉ phụ
thuộc vào môi trường chính trị ở Mỹ, mà c̣n
phụ thuộc vào những hành động của Trung Quốc
nhằm học hỏi và thích nghi, từ những thiếu
sót của sáng kiến này. Mỹ và các quốc gia có cùng tư
tưởng sẽ tiếp tục có cái nh́n tiêu cực về
BRI nếu Bắc Kinh không làm cho dự án này minh bạch,
công bằng và bền vững hơn. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc
cho thấy những nỗ lực chân thành nhằm học hỏi
và thích ứng, đồng thời thực thi những tiêu
chuẩn thúc đẩy tính minh bạch, sự công bằng
và tính bền vững, th́ nước này có thể tạo ra
những tác động tích cực hơn và đưa Trung
Quốc hướng tới một mô h́nh phát triển có
trách nhiệm hơn.
LẬP TRƯỜNG TIẾN TRIỂN CỦA
NGA VỀ BRI
Nga tự nhận thấy họ không tham gia cạnh tranh
với Trung Quốc để giành vị trí số một
toàn cầu. Hai nước đă đạt được
quan hệ hợp tác cấp cao, được xây dựng
dựa trên một loạt lợi ích chung, thế giới
quan tương hợp và sự đồng cảm lẫn
nhau. Thái độ thân thiện này cho phép Moskva và Bắc Kinh
giữ cho mối quan hệ luôn yên ổn và xử lư thành
công những sự bất cân xứng ngày càng gia tăng về
sức mạnh và những lợi ích cạnh tranh lẫn
nhau. Cách tiếp cận này giải thích cách thức Điện
Kremlin đối phó với BRI: Moskva đă t́m cách sử dụng
sáng kiến của Trung Quốc để thu hút đầu
tư vào Nga và thúc đẩy tiềm năng quá cảnh của
nước này trong mạng lưới logistics xuyên lục
địa Trung Quốc-Liên minh châu Âu (EU), đồng thời
nhất trí với Bắc Kinh nhằm pḥng ngừa những
yếu tố của BRI có khả năng gây tổn hại
tới các lợi ích quốc gia của Nga.
Quan điểm chung của
Moskva về BRI
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn
nhất của Nga, mặc dù điều này không đúng theo
chiều ngược lại. Năm 2018, kim ngạch thương
mại hai chiều lần đầu tiên vượt ngưỡng
100 tỷ USD. Cũng trong năm này, Nga đă tăng gấp
3 lần tỷ lệ dự trữ đồng nhân dân tệ
lên gần 15% – gấp 10 lần mức trung b́nh của các
ngân hàng trung ương trên toàn cầu. Trong bối cảnh
đối đầu với Mỹ, Nga đă tiến tới
trông cậy Trung Quốc hơn. Tuy nhiên, nước này không
muốn rơi vào tầm ảnh hưởng của Trung Quốc.
Mục tiêu chính của Moskva là gây dựng mối quan hệ
hữu ích với nước láng giềng của ḿnh, đồng
thời không trở nên phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc.
Đây cũng là cách Moskva nh́n nhận BRI của Bắc Kinh.
Theo đánh giá của Nga, BRI là một tập hợp thuận
tiện các hoạt động kinh tế khác nhau của
Trung Quốc ở nước ngoài, đóng vai tṛ thành tố
chính trong di sản chính sách đối ngoại của Chủ
tịch Tập Cận B́nh. Nó cũng là một cái nhăn hữu
ích đối với các quan chức Trung Quốc khi báo cáo với
Bắc Kinh về những thành tựu của chính họ,
trong nỗ lực nịnh bợ lănh đạo trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Do đó, BRI về
cơ bản được thúc đẩy bởi các nhân tố
kinh tế và chính trị trong nước nhưng cũng là
công cụ để đạt được các mục
tiêu chính sách đối ngoại dài hạn của Trung Quốc.
Người Nga đánh giá cao việc BRI đánh dấu một
bước ngoặt trong quan hệ đối ngoại của
Trung Quốc, v́ nó tượng trưng cho việc Bắc
Kinh khởi động một tiến tŕnh quyết
đoán hơn ở nước ngoài. Mục tiêu hiện tại
của Trung Quốc dường như là đạt được
vị thế một cường quốc toàn cầu thực
sự. Sức mạnh kinh tế và tài chính, cũng như sức
mạnh công nghệ ngày càng tăng của Bắc Kinh là những
công cụ chính nhằm đạt được mục
tiêu này. BRI là biểu tượng của mục tiêu đó.
Đối với người Nga, việc Trung Quốc chuyển
từ sự tự kiềm chế sang hành động quyết
đoán hơn chỉ là lẽ tự nhiên đối với
một quốc gia có sức mạnh kinh tế, kỹ thuật
và quân sự như Trung Quốc hiện tại. Do đó,
BRI cho thấy Trung Quốc đă đặt chân lên con đường
giành lấy ảnh hưởng về địa chính trị,
chứ không chỉ về địa kinh tế.
Tiến triển trong tư
duy của Nga về BRI
Cách tiếp cận này, hiện được chia sẻ
rộng răi trong giới quan chức và cộng đồng
chuyên gia Nga, không xuất hiện ngay lập tức. Năm
2013, khi Tập Cận B́nh tiết lộ thông tin về BRI ở
Astana, Kazakhstan, Điện Kremlin đă nh́n nhận sáng kiến
này với thái độ không chắc chắn và hoài nghi cao
độ. Khi mối quan hệ của Nga với phương
Tây xấu đi vào năm 2014 đến mức phương
Tây đưa ra các biện pháp trừng phạt Nga, Moskva bắt
đầu t́m cách tăng cường quan hệ đối
tác với Bắc Kinh và biến mối quan hệ với
Trung Quốc thành một lựa chọn thay thế cho mối
quan hệ của nước này với châu Âu về vốn,
công nghệ và cơ hội thị trường. Điều
này đ̣i hỏi phải đánh giá lại trên quy mô lớn
những rủi ro khi hợp tác chặt chẽ với Trung
Quốc trong thương mại năng lượng, mua bán
vũ khí và các lĩnh vực khác, trong đó có BRI. Phải
đến mùa Xuân năm 2015, Điện Kremlin mới đưa
ra một cách tiếp cận mới, tự tin hơn đối
với BRI, được h́nh thành bởi việc hiểu
hơn sáng kiến này của Trung Quốc và những sự
thay đổi mang tính kiến tạo trong quan hệ của
Nga với phương Tây.
Cách tiếp cận mới đă được củng
cố trong tuyên bố được kư kết giữa Tổng
thống Vladimir Putin và Chủ tịch Tập Cận B́nh tại
Điện Kremlin vào ngày 8/5/2015. Putin nhận thức được
tầm quan trọng của sự chấp nhận quốc
tế dành cho BRI đối với vị thế chính trị
trong nước của Tập Cận B́nh và hiểu được
ư nghĩa to lớn mà Bắc Kinh gán cho những lời ủng
hộ từ phía các nhà lănh đạo các nước lớn
khác đối với sáng kiến chính sách của họ. Về
điểm này, Nga và Putin chiếm vị trí độc tôn.
Moskva hiểu rằng mặc dù sự bất cân xứng về
sức mạnh giữa Nga và Trung Quốc ngày càng tăng,
song họ vẫn nắm giữ những lá bài quan trọng.
Cơ hội và rủi ro
Nga coi sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung
Quốc là sự suy giảm tương đối của
sự thống trị toàn cầu của Mỹ. Xu hướng
này phù hợp với những ǵ Moskva coi là cách thức phân
phối quyền lực toàn cầu đúng đắn, tức
là một cấu trúc đa cực. Theo truyền thống,
Nga phản đối sự bá quyền toàn cầu của
bất kỳ nước nào, và nhận thấy các lợi
ích của ḿnh được đáp ứng tốt hơn
trong một hệ thống ít tập trung hơn, do đó
đây là một diễn biến đáng hoan nghênh. Mối
quan hệ đối tác mạnh mẽ với Trung Quốc
về các vấn đề toàn cầu là một tài sản
chính sách đối ngoại lớn được Điện
Kremlin trân trọng.
Tuy nhiên, Nga cũng hầu như không dung thứ cho sự
bá quyền khu vực. BRI có thể chứng kiến Trung Quốc
trở nên vượt trội quá mức trên lục địa
Á-Âu, nơi nước này chung sống với Nga và nhiều
nước khác. Trong bối cảnh quan hệ giữa Mỹ
và Trung Quốc hiện đang căng thẳng, và những
mối nghi ngờ của EU về một số thông lệ
và mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc, khu vực
châu Á-Âu đă nổi lên, cùng với châu Phi, là trọng tâm chính
của những nỗ lực của Bắc Kinh. Mục
tiêu chính của Moskva trong quan hệ với Trung Quốc là lợi
dụng BRI và các dự án khác có nguồn gốc từ Trung
Quốc nhằm giúp phát triển nền kinh tế Nga, mà
đồng thời không mời gọi Bắc Kinh áp đặt
sức ảnh hưởng không thích đáng đối với
các chính sách của Moskva. Cho đến nay, Nga kết luận
rằng BRI đem lại cho họ một số cơ hội,
và rằng họ có thể xử lư được những
rủi ro có liên quan.
Trước hết, Moskva cho rằng Nga có vị trí
địa lư rất phù hợp để liên kết hai
đầu tàu kinh tế của khu vực châu Á-Âu là EU và
Đông Á. Khía cạnh kết nối của BRI, vốn t́m
cách cải thiện liên kết giao thông đường bộ
giữa EU và Trung Quốc, đương nhiên phù hợp với
mong muốn của Moskva là khơi mở tiềm năng quá
cảnh của họ ở khu vực châu Á-Âu. Trong tất
cả các con đường bộ giữa miền Tây Trung
Quốc và châu Âu, đường xuyên qua Nga là ngắn nhất.
Ngoài ra, Liên minh kinh tế Á-Âu (EEU) gồm Armenia, Belarus,
Kazakhstan, Kyrgyzstan và Nga chỉ cho phép hàng hóa đi qua 2 trạm
hải quan trên đường từ Tân Cương đến
cửa ngơ vào EU ở Ba Lan, Phần Lan hay các nước
Baltic. Nhờ có những ưu đăi chính sách do Trung Quốc
đưa ra, tuyến đường này đang phát triển
bùng nổ, với việc tỷ lệ gia tăng khối
lượng hàng hóa vận chuyển mỗi năm luôn ở
mức 2 con số từ năm 2015 đến nay. Chỉ
trong 10 tháng đầu năm 2018, khối lượng hàng
hóa được vận chuyển từ Trung Quốc
đến châu Âu và ngược lại qua Nga đă tăng
23% lên mức 323.000 TEU (đơn vị đo hàng hóa theo
côngtenơ).
Cho đến nay, hoạt động thương mại
này đang sử dụng các tuyến đường sắt
và đường cao tốc có sẵn. Moskva và Bắc Kinh
đang thảo luận về những dự án nâng cấp
và mở rộng các liên kết giao thông hiện có, bao gồm
kết nối đường sắt cao tốc giữa
Moskva và Kazan với khả năng mở rộng tới
châu Âu và Trung Quốc, một tuyến đường cao tốc
từ biên giới Kazakhstan-Nga đến châu Âu và một số
dự án nhỏ hơn nhằm giải quyết các “nút cổ
chai” hiện tại. Đối với Nga, việc nâng cấp
tuyến đường sắt xuyên Siberia cũng là một
ưu tiên chính, nhưng Trung Quốc lại ít quan tâm tới
việc này. Đồng thời, Moskva nhận ra rằng tuyến
đường xuyên Á-Âu từ Trung Quốc đến châu
Âu qua Kazakhstan và Nga không phải là thách thức đối với
Đường sắt xuyên Siberia v́ hai tuyến đường
này nhắm vào hai nền tảng hàng hóa khác nhau ở các khu
vực khác nhau của châu Á.
Bắc Kinh cũng quan tâm đến việc phát triển
cơ sở hạ tầng dọc theo tuyến đường
biển phía Bắc đi qua Bắc Cực dọc theo bờ
biển Siberia. Đối với Moskva, việc mở ra tuyến
đường này vừa là cơ hội kinh tế lớn
vừa là thách thức an ninh, và nước này có khả
năng sẽ tiến hành một cách thận trọng. Cho
đến nay, Moskva đă chấp nhận Bắc Kinh là
đối tác chính trong việc phát triển Bắc Cực.
Điều này phần nhiều là do bắt buộc hơn
là do lựa chọn. Nhiều hoạt động kinh tế
mà Nga muốn theo đuổi trong khu vực phải chịu
các biện pháp trừng phạt của phương Tây.
Một ví dụ về hợp tác Trung-Nga có liên quan trực
tiếp đến BRI là sự tham gia của Trung Quốc
trong Yamal LNG, dự án khí tự nhiên hóa lỏng đầu
tiên ở Nga phía trên Ṿng Bắc Cực. Vào năm 2015, Quỹ
Con đường tơ lụa (SRF), một công cụ
đặc biệt do Bắc Kinh tạo ra nhằm tài trợ
cho các dự án BRI, đă có được 9,9% cổ phần
trong Yamal LNG. Bắc Kinh sau đó đă giúp dự án này có
được khoản vay 12 tỷ USD từ Ngân hàng xuất
nhập khẩu Trung Quốc và Ngân hàng phát triển Trung Quốc.
Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNPC), doanh
nghiệp nhà nước lớn nhất của Trung Quốc
trong lĩnh vực năng lượng, sở hữu 20% cổ
phần của Yamal LNG, nâng tổng số cổ phần của
Bắc Kinh trong dự án chiến lược này lên 29,9%.
Điều đáng kể là Yamal LNG đang phải chịu
trừng phạt của Mỹ, v́ một trong những cổ
đông người Nga của dự án này, Gennady Timchenko,
đă được đưa vào danh sách công dân được
chỉ định đặc biệt (SDN) của Bộ
Tài chính Mỹ, và pháp nhân Novatek được đưa vào
danh sách nhận diện trừng phạt theo ngành. Nếu
không có các khoản vay của Trung Quốc và các khoản vốn
được tài trợ thông qua BRI, Nga sẽ khó có khả
năng hoàn thành dự án này, một dự án được
Putin coi là một trong những ưu tiên chiến lược.
Một ví dụ khác về việc Nga sử dụng các
tổ chức tài chính Trung Quốc liên quan đến BRI nhằm
né tránh các biện pháp trừng phạt của phương
Tây và thu hút đầu tư vào các dự án trọng điểm
là quyết định của SRF mua 10% cổ phần của
Sibur, công ty hóa dầu lớn nhất của Nga, vào năm
2016. Hành động này dựa trên việc trước
đó, gă khổng lồ hóa dầu của Trung Quốc
Sinopec đă mua lại 10% cổ phần của Sibur. Trong trường
hợp của Sibur, 2 trong số các cổ đông của
công ty là Gennady Timchenko và Kirill Shamalov đều nằm trong
danh sách SDN, và cả hai đều thân cận với Putin.
Ngoài các thỏa thuận nổi bật được
các nhà lănh đạo hàng đầu của Nga và Trung Quốc
ủng hộ, nhiều dự án đầu tư nhỏ hơn
ở Nga, vốn thiếu sự hậu thuẫn mạnh mẽ
về chính trị, lại phải vật lộn để
thu hút đầu tư từ Trung Quốc. Điều này
gây ra sự thất vọng ở mức độ nào
đó trong giới doanh nghiệp tư nhân ở Nga về
những cơ hội mà BRI đem lại. Tuy nhiên, Chính phủ
Nga hoàn toàn nhận thức được rằng tỷ lệ
đầu tư của Trung Quốc vào Nga c̣n thấp là do
những vấn đề về cấu trúc của nền
kinh tế Nga và do đó là sự thiếu tin tưởng của
các doanh nghiệp Trung Quốc. Chính phủ Nga coi BRI là một
khuôn khổ tốt để giải quyết chí ít là vấn
đề thứ hai.
Sự hài ḥa giữa BRI và
Liên minh kinh tế Á-Âu
Ngoài những dự án dành riêng cho Nga, Moskva chủ yếu
tập trung vào các hoạt động BRI liên quan tới các
nước láng giềng – vốn từng là một phần
của đế quốc Nga và Liên Xô. Một vài quốc gia
trong số này thuộc EEU, sáng kiến hội nhập của
riêng Nga, bao hàm cả Kazakhstan và Kyrgyzstan ở Trung Á, Armenia ở
Nam Caucasus và Belarus ở Đông Âu.
Thay v́ tham gia BRI, Moskva đă đề xuất làm hài ḥa
sáng kiến này với EEU. Ư tưởng là tránh xung đột
lợi ích với Bắc Kinh ở các nước cộng
ḥa thuộc Liên Xô trước đây. Về cơ bản,
khi Trung Quốc mở rộng về mặt kinh tế ở
Trung Á, họ sẽ không thách thức vị thế ưu việt
của Nga trong lĩnh vực quân sự-an ninh. Mặc dù
Trung Quốc đang thăm ḍ ư kiến trong lĩnh vực
an ninh và đă gây dựng được sức ảnh hưởng
chính trị ở chừng mực nào đó trong khu vực,
công thức này cho đến nay nh́n chung đă phát huy tác dụng.
Các nước Trung Á, từng mong muốn trở nên hoàn toàn
độc lập với Nga, đă trở nên cảnh giác với
những tham vọng của Trung Quốc và t́m cách tạo thế
cân bằng giữa hai nước láng giềng lớn của
họ.
Moskva đang t́m cách thu hút đầu tư của Trung Quốc
vào các mạng lưới logistics đi qua lănh thổ EEU.
Lĩnh vực hợp tác này giữa Trung Quốc và EEU
đang phát triển nhanh chóng, được chứng minh bởi
sự gia tăng khối lượng hàng hóa. Một trục
khác trong những nỗ lực của Nga là việc điều
phối các dự án đầu tư được “gắn
mác” BRI mà các quốc gia EEU đề xuất với các nhà
đầu tư Trung Quốc. Cho đến nay, hoạt
động này kém thành công hơn, phần lớn là do sự
cạnh tranh trong nội bộ các nước thành viên EEU và
một số vấn đề liên lạc giữa các chính
phủ trung ương và Ủy ban kinh tế Á-Âu (EEC), cơ
quan quản lư siêu quốc gia của EEU.
Một phần của nghị tŕnh BRI mà Nga và các đối
tác của họ trong EEU đang tạm hoăn là lĩnh vực
thương mại tự do với Trung Quốc. Quan điểm
bảo hộ trong EEU là mạnh, và Moskva có chung những quan
ngại với các thủ đô EEU khác rằng một thỏa
thuận thương mại sâu sắc và toàn diện với
Trung Quốc có thể đe dọa hoạt động chế
tạo ở địa phương. Bắc Kinh tỏ thái
độ nước đôi đối với những
quan ngại này và không thúc đẩy một thỏa thuận
chung với EEU, cũng không t́m kiếm các thỏa thuận
song phương với các nước thành viên EEU, động
thái sẽ gây tổn hại liên minh này từ bên trong và làm
suy yếu sự hiểu biết lẫn nhau giữa Trung Quốc
và Nga ở Trung Á. Tháng 5/2018, Chính phủ Trung Quốc và EEC
đă kư kết một thỏa thuận hợp tác đóng
vai tṛ lộ tŕnh cho các cuộc đàm phán trong tương
lai về việc tự do hóa và tạo điều kiện
thuận lợi cho thương mại.
Phản ứng rộng hơn
của Nga với BRI: Đa dạng hóa hơn nữa các mối
quan hệ kinh tế với châu Á
Nga theo dơi các hoạt động của Trung Quốc ở
các nơi khác thuộc khu vực châu Á-Âu, từ Pakistan đến
Ba Lan, để hiểu được quy mô tham vọng của
Bắc Kinh và cách thức hoạt động của nước
này với tư cách một bên tham gia toàn cầu. Moskva sẽ
c̣n tiếp tục đối đầu với Washington và
xa lánh EU trong nhiều năm. Trong giai đoạn đó,
Trung Quốc sẽ là đối tác kinh tế và chiến lược
chính của Nga. Tuy nhiên, Điện Kremlin không muốn chỉ
phụ thuộc vào Trung Quốc.
Chính chủ nghĩa tích cực của Bắc Kinh thúc
đẩy Điện Kremlin theo đuổi chính sách kinh tế
đối ngoại đa dạng hơn ở châu Á. Moskva
hiện đang tham gia các cuộc đàm phán căng thẳng
với Tokyo về một hiệp ước ḥa b́nh và thỏa
thuận lănh thổ kèm theo đó, mà nếu đạt được
th́ sẽ biến mối quan hệ Nga-Nhật từ quan hệ
láng giềng xa xôi thành láng giềng gần gũi. Nga t́m cách
mở rộng quan hệ kinh tế với Ấn Độ,
đối tác địa chính trị lâu đời của
nước này, và làm ăn kinh doanh nhiều hơn với
Hàn Quốc. Quan hệ với các nước thuộc Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng đang được
tiếp thêm năng lượng. Vào thời điểm hiện
tại, những mối quan hệ này hầu hết vẫn
c̣n là ư định và hy vọng, nhưng chúng cho thấy Nga
muốn trở thành một bên tham gia kinh tế tích cực.
Tương tự như cách tiếp cận thực dụng
đối với các khoản tiền do Trung Quốc cung cấp
thông qua BRI, Nga đang kết hợp can dự với pḥng vệ
trong lĩnh vực biểu tượng và ư tưởng. Như
đă lưu ư, Điện Kremlin đă làm rơ ngay từ đầu
rằng Nga sẽ can dự với Trung Quốc về BRI,
thay v́ tham gia sáng kiến với tư cách một trong nhiều
đối tác của nước này. Để tăng cường
hơn nữa sự b́nh đẳng mang tính biểu tượng
này với Bắc Kinh, Moskva đă đưa ra ư tưởng
về Hiệp định Đối tác Kinh tế Á-Âu (EEP)
bao gồm EEU, Trung Quốc và thậm chí cả các nước
ASEAN. Khái niệm này đă được Putin quảng bá
trên nhiều diễn đàn quốc tế, trong đó có hội
nghị thượng đỉnh BRI tại Bắc Kinh vào
tháng 5/2017. Đối với Moskva, sự can dự BRI-EEU có
thể là bước đệm cho EEP, một khái niệm
thậm chí c̣n lớn hơn và tham vọng hơn mà Moskva
đang t́m cách thúc đẩy. Giới lănh đạo Nga cố
t́nh tỏ ra mơ hồ về ư nghĩa thực sự của
EEP. Mục đích chính dường như là nhằm giúp Nga
duy tŕ sự b́nh đẳng mang tính biểu tượng với
Trung Quốc khi nói tới việc thúc đẩy mô h́nh hội
nhập kinh tế cho vùng đất Á-Âu.
Kết luận
Tóm lại, thái độ của Nga đối với
BRI nh́n chung là tích cực. Sáng kiến này được coi
là một cơ hội ẩn chứa những rủi ro có
thể xử lư được. Nga ít bận tâm hơn tới
các vấn đề quản trị toàn cầu khi được
áp dụng cho BRI, so với tác động thực sự của
sáng kiến này đối với chính Nga và khu vực hậu
Xôviết lân cận nước này. Ở đó, Moskva tập
trung t́m ra một mô h́nh can dự mang lại lợi ích kinh tế
cho Nga, đồng thời bảo vệ chủ quyền quốc
gia và lợi ích an ninh của Nga. Moskva cũng nhận ra rằng
BRI là một dự án chính trị hướng tới việc
nâng cao tầm vóc của Chủ tịch Tập Cận B́nh.
Họ sẵn sàng chấp nhận điều này, với nhận
thức rằng mối quan hệ Putin-Tập Cận B́nh là
yếu tố then chốt trong quan hệ đối tác
Nga-Trung. Đồng thời, Điện Kremlin can dự vào
chủ nghĩa biểu tượng nhằm gửi đi
thông điệp – tới cả những người bạn
của họ ở Trung Nam Hải – rằng Nga quyết tâm
đóng vai tṛ đối tác b́nh đẳng.
BRI: TẦM
NH̀N CỦA TRUNG QUỐC VỀ TÍNH KẾT NỐI TOÀN CẦU
Từ khi được đề xuất đến
nay, BRI đă phải đối mặt với những quan
ngại lớn từ phía cộng đồng quốc tế.
Một mặt, nhiều quốc gia và tổ chức quốc
tế có những kỳ vọng lớn về BRI, và hơn
100 quốc gia và tổ chức quốc tế đă kư kết
ít nhất 170 thỏa thuận hợp tác với Trung Quốc.
Mặt khác, nhiều người cũng tỏ ư hoài nghi và
chỉ trích các chi tiết, mục tiêu, sức ảnh hưởng
và triển vọng của sáng kiến này, điều mà
Trung Quốc đă không lường trước được.
Dự án kéo dài 5 năm này đă có tác động to lớn
đối với các quốc gia và khu vực thuộc phạm
vi của BRI, nhưng nó vẫn đang phát triển và thay
đổi. BRI liên tục được điều chỉnh
dựa trên những kinh nghiệm và bài học trong quá khứ
nhằm thúc đẩy một hệ thống quản trị
toàn cầu mang tính bao trùm và cân bằng.
Cách thức Trung Quốc xác
định vị trí của BRI
BRI là nền tảng chung cho chính sách mở cửa và hợp
tác kinh tế của Trung Quốc. Việc Trung Quốc xác
định vị trí của BRI chủ yếu bao gồm những
phương diện sau đây:
BRI là một tầm nh́n kinh tế lớn thúc đẩy
sự phát triển của các khu vực kém phát triển của
Trung Quốc và mở rộng chính sách mở cửa của
nước này tới khu vực châu Á-Âu và châu Âu
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc đă nêu rơ vào năm 2013 rằng nước
này cần “đẩy nhanh việc xây dựng cơ sở
hạ tầng kết nối Trung Quốc với các nước
láng giềng và các khu vực lân cận, cũng như nỗ
lực nhằm xây dựng Vành đai kinh tế Con đường
tơ lụa và Con đường tơ lụa trên biển,
nhằm h́nh thành mô h́nh mở cửa toàn diện mới”.
BRI là một phần quan trọng trong công cuộc cải
cách của Trung Quốc và là một phương tiện mà
qua đó nước này đẩy nhanh sự phát triển
của ḿnh. Những vùng duyên hải đă chứng kiến
sự phát triển nhanh chóng trong hơn 30 năm qua, và giờ
đây khu vực phía Tây sẽ tăng cường sự hợp
tác về thương mại, kinh tế, kỹ thuật và
tài chính với Trung Á, Nam Á, Trung Đông và thậm chí là châu
Âu, nhằm tiếp tục công cuộc mở cửa của
Trung Quốc và đạt được sự phát triển
cân bằng thông qua việc điều phối giữa các
khu vực khác nhau. Cụ thể, các tỉnh phía Tây Trung Quốc
sẽ được hưởng lợi từ BRI, khi dự
án này gia tăng kết nối với các nước láng giềng.
BRI không chỉ là một dự án dài hạn mà c̣n là một
bản tóm tắt sâu sắc sự hợp tác kinh tế của
Trung Quốc với cả các nước châu Âu lẫn châu
Á khác trong 20 năm qua. Sau hơn 20 năm chung tay nỗ lực,
Trung Quốc đă trở thành đối tác chính của Nga
và các nước Trung Á, với sự hợp tác trong nhiều
dự án mới về cơ sở hạ tầng và
năng lượng trong thời gian gần đây. Những
thành tựu của 20 năm qua đă cho phép các quốc gia
này hội nhập chặt chẽ hơn nữa vào nền
kinh tế thế giới. Những thành tựu này không chỉ
trở thành nền tảng vững chắc cho BRI mà c̣n là
minh chứng rơ ràng rằng BRI phù hợp với lợi ích của
các nước trong khu vực châu Á-Âu trong việc t́m kiếm
sự phát triển kinh tế và mở rộng hợp tác
kinh tế.
BRI là một đề xuất nhằm tăng cường
sự hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc và các nước
tham gia trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và sự
hợp tác khu vực thay đổi đáng kể
Tác động sâu sắc của cuộc khủng hoảng
tài chính năm 2008 vẫn tiếp diễn, sự phục hồi
của nền kinh tế thế giới c̣n chậm và sự
phát triển ở các nước trên thế giới là không
đồng đều. Cấu trúc và các quy tắc đầu
tư và thương mại quốc tế đang thay đổi
sâu sắc, và những vấn đề mà tất cả các
nước đang phát triển phải đối mặt
vẫn c̣n nghiêm trọng. Mặc dù Mỹ đă chịu thiệt
hại trong cuộc khủng hoảng tài chính và mất
đi một phần sức mạnh kinh tế, nhưng họ
đă t́m cách dẫn dắt cuộc cách mạng công nghiệp
mới của thế giới. Trong nhiệm kỳ thứ
hai của cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama, Mỹ
đă tích cực thúc đẩy các cuộc đàm phán Hiệp
định đối tác xuyên Thái B́nh Dương (TPP) và Hiệp
định đối tác thương mại và đầu
tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP) trong nỗ lực
nhằm định h́nh lại hoạt động đầu
tư và thương mại quốc tế. Khi Trump nhậm
chức, Mỹ đă rút khỏi các cuộc đàm phán TPP và
TTIP, buộc các quốc gia khác đi con đường của
riêng họ trong bối cảnh những tuyên bố của
Trump về “nước Mỹ trước tiên”.
Trong bối cảnh này, BRI đă nhắm tới mục
tiêu thúc đẩy ḍng chảy tự do của hàng hóa và dịch
vụ, phân bổ nguồn lực hiệu quả và hội
nhập sâu rộng các thị trường; khuyến khích
các nước thuộc phạm vi của BRI phối hợp
chính sách kinh tế và thực hiện hợp tác khu vực
sâu rộng hơn với những tiêu chuẩn cao hơn; và
cùng tạo ra một cấu trúc hợp tác kinh tế khu vực
cởi mở, toàn diện và cân bằng, có lợi cho tất
cả. Là một sáng kiến hợp tác kinh tế xuyên quốc
gia toàn diện, BRI bao gồm châu Á, vùng Caucasus, Nga và châu Âu.
Các quốc gia hợp tác trong các lĩnh vực đa dạng
như giao thông vận tải, năng lượng, thương
mại, tài chính, công nghiệp và giáo dục, cùng nhiều
lĩnh vực khác. Phạm vi rộng lớn này cho thấy
việc xây dựng BRI linh hoạt cao độ ra sao dựa
trên sự phối hợp chiến lược và thông tin
liên lạc về chính sách giữa Trung Quốc và các quốc
gia có liên quan mà không có những dàn xếp thể chế bắt
buộc, vốn tạo ra những hạn chế không cần
thiết. Mục đích cơ bản của BRI là tạo
điều kiện cho mối quan hệ kinh tế chặt
chẽ hơn giữa các quốc gia có liên quan và sự hợp
tác sâu sắc hơn giữa các quốc gia thành viên, cũng
như có thêm không gian để phát triển.
BRI là sự mở rộng
tự nhiên của sự tham gia và hội nhập của
Trung Quốc vào hệ thống toàn cầu
Tham gia và hội nhập vào hệ thống toàn cầu là
mục tiêu chính của Trung Quốc trong một thời gian
dài. Kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa
và cải cách, sự hội nhập của Trung Quốc vào
hệ thống toàn cầu đă tăng tốc, sự liên
kết của nước này với các nước khác
được mở rộng và vai tṛ của nước
này trong hệ thống quốc tế đă trở nên nổi
bật hơn. Do đó, Trung Quốc đă hội nhập
sâu hơn vào hệ thống toàn cầu. Thực tế này
đ̣i hỏi Trung Quốc phải sắp xếp lại
các chính sách đối nội và đối ngoại, điều
chỉnh và thay đổi các chính sách hợp tác tương
đối phân tán và phối hợp tốt hơn mối
quan hệ của ḿnh với tất cả các phần trong
hệ thống toàn cầu để chứng tỏ rằng
nước này có thể gánh vác trách nhiệm của một
nước lớn và thúc đẩy sự phát triển
chung trong thời b́nh. BRI là câu trả lời mới nhất
của Trung Quốc cho những thách thức này. Sáng kiến
này bắt đầu bằng việc cải thiện hợp
tác kinh tế với các nước tham gia và đă giúp Trung
Quốc duy tŕ động lực trong khi hội nhập vào
hệ thống toàn cầu.
BRI là một nỗ lực
quan trọng của Trung Quốc để tham gia và cải
thiện hệ thống quản trị toàn cầu
Kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhiều
thay đổi chính trị và kinh tế quan trọng đă
diễn ra trên trường quốc tế. Những mối
đe dọa và thách thức mới đă xuất hiện.
Trong khi đó, các quy tắc và dàn xếp quốc tế không
thể phản ánh đầy đủ thực tế của
trật tự quốc tế. Khi xét tới các nhu cầu cơ
bản của đại đa số thành viên của cộng
đồng quốc tế, hệ thống quản trị
toàn cầu cần được cải thiện hơn nữa.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo vệ
sinh kế của người dân, làm sâu sắc thêm quan hệ
hợp tác chung và ngăn chặn sự lây lan của chủ
nghĩa cực đoan và chủ nghĩa khủng bố là
những mục tiêu thiết yếu.
Đă có một số chương tŕnh và sáng kiến hợp
tác kinh tế khu vực được thiết kế nhằm
giải quyết các vấn đề trên, như Liên minh
kinh tế Á-Âu do Nga khởi xướng, Sáng kiến Con
đường tơ lụa mới do Mỹ bảo trợ,
Chiến lược Trung Á mới của EU, Chiến lược
kết nối EU-châu Á, Hội đồng các nước
dân tộc Turk, Hội đồng hợp tác vùng Vịnh và
Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á. Tuy nhiên, khó có thể
thực sự giải quyết các thách thức và vấn
đề khu vực khác nhau bằng cách dựa vào một
hay thậm chí một vài giải pháp hiện có. BRI không phải
là đối thủ cạnh tranh hay sự thay thế cho
các chương tŕnh hợp tác khu vực hiện có. Sáng kiến
này dựa trên thực tế rằng sự phát triển và ổn
định của các quốc gia và khu vực này rất
quan trọng đối với Trung Quốc. Do đó, chừng
nào BRI c̣n thúc đẩy hợp tác kinh tế khu vực và
duy tŕ ổn định khu vực, th́ chừng đó sáng kiến
này sẽ t́m ra điểm chung và mở rộng hợp tác
với họ và đạt được sự hợp
tác b́nh đẳng và cùng có lợi.
Trên thực tế, là một quốc gia đang phát triển,
Trung Quốc có kinh nghiệm có một không hai trong quá tŕnh
tham gia và hội nhập vào hệ thống quản trị
toàn cầu, và đă tiến hành một loạt nỗ lực
nhằm cải thiện hệ thống quản trị toàn
cầu cả về khái niệm lẫn thực tiễn. Chẳng
hạn, những ư tưởng và chính sách mang lại sự
hài ḥa, an ninh và thịnh vượng cho các nước láng
giềng mà Trung Quốc đề xuất và theo đuổi
đă bù đắp phần nào cho sự chênh lệch về
phát triển và ổn định mà hệ thống quản
trị toàn cầu đă gây ra ở các khu vực khác nhau, và
các chính sách này đă đạt được các kết quả
khả quan trong vài thập kỷ qua. BRI đơn thuần
chỉ là sự lặp lại mới nhất của những
khái niệm và chính sách như vậy.
Những thách thức và phản
ứng
BRI không thể được thực hiện trong một
sớm một chiều, và có rất nhiều khó khăn,
thách thức phải vượt qua. Về vấn đề
này, nhiều người trên thế giới cho rằng
Trung Quốc quá lạc quan về BRI. Tuy nhiên, Trung Quốc
có một quan điểm tương đối thẳng thắn
về BRI. Nước này có quan điểm khá thực dụng
trong khi cộng đồng quốc tế hoài nghi và chỉ
trích BRI. Khi Trung Quốc giải thích cho các nước khác về
BRI, nước này cũng đă tích cực điều chỉnh
và cải thiện các thông lệ liên quan đến BRI của
ḿnh.
Những hoài nghi và chỉ
trích
Những hoài nghi và chỉ trích mà BRI thường xuyên phải
đối mặt bao gồm: BRI là chiến lược
địa chính trị đối ngoại của Trung Quốc
trong khi nước này phá vỡ trật tự quốc tế
hiện tại; BRI là nỗ lực của Trung Quốc nhằm
xây dựng một phạm vi ảnh hưởng – các nước
tham gia sẽ mắc bẫy đầu tư của Trung Quốc
và buộc phải cung cấp hàng hóa và nguyên liệu thô cho Bắc
Kinh trước khi trở thành băi rác cho các sản phẩm
của Trung Quốc; Trung Quốc sẽ chuyển năng suất
công nghiệp dư thừa của ḿnh ra nước ngoài;
Trung Quốc đang xuất khẩu mô h́nh phát triển kinh
tế thông qua BRI, dẫn đến sự phát triển quá
mức, ô nhiễm môi trường, bẫy nợ…
Phổ biến nhất là quan điểm cho rằng BRI
là một chiến lược địa chính trị mới
của Trung Quốc. Quan điểm này nói chung nh́n nhận
rằng Trung Quốc đă nắm bắt cơ hội khi
Nga, Mỹ và châu Âu để lại một khoảng trống
địa chính trị ở Trung Á. Những người ủng
hộ quan điểm này cho rằng BRI không chỉ là cách thức
đảm bảo an ninh năng lượng mà c̣n giúp Trung
Quốc cải thiện hợp tác với các nước
láng giềng phương Tây và đối trọng với sự
xoay trục của Mỹ sang châu Á.
Trên thực tế, t́nh thế tiến thoái lưỡng
nan giả này, dựa trên giả thuyết rằng Trung Quốc
và Mỹ mắc kẹt trong tṛ chơi được mất
ngang nhau, có những mâu thuẫn cố hữu. Thứ nhất,
Nga, Mỹ và châu Âu có lợi ích đáng kể ở Trung Á và
vẫn đang theo đuổi chiến lược của
riêng họ, v́ vậy không có khoảng trống nào cả. Thứ
hai, mặc dù chiến lược tái cân bằng của Mỹ
đă gây ra những thách thức mới đối với
Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh không thể từ bỏ
các lợi ích chiến lược của ḿnh ở Đông
Á. Thứ ba, TPP, TTIP và thỏa thuận thương mại
2018 giữa Mỹ, Canada và Mexico hoàn toàn khác với BRI. Trung
Quốc đương nhiên sẽ thực hiện các biện
pháp tương ứng để đối phó với các
tác động kinh tế của các thỏa thuận đó
v́ nước này có nhiều mối quan hệ kinh tế với
các nước liên quan, nhưng BRI không có mối quan hệ
thực chất nào với các thỏa thuận đó. Do
đó, việc Trung Quốc tham gia cải thiện hệ thống
quản trị toàn cầu không phải là nhằm điều
chỉnh hay phá vỡ trật tự quốc tế hiện
tại, như một số phân tích đă h́nh dung.
Những thành tựu của chính sách mở cửa và cải
cách 40 năm của Trung Quốc dựa trên sự hội
nhập của nước này vào hệ thống quốc tế
hiện tại. Trung Quốc hy vọng hệ thống này sẽ
trở nên tốt đẹp hơn, hợp lư hơn và ít hỗn
loạn hơn, nhưng nước này không có ư định
loại bỏ nó và bắt đầu lại từ đầu.
Việc bỏ qua điểm này và nhấn mạnh quá mức
vào cách giải thích mang tính tiêu cực về những thay
đổi do BRI mang lại, và đưa ra các chính sách nhằm
chống lại BRI, hoặc h́nh thành một liên minh quốc
tế nhằm phá vỡ hoặc kiềm chế BRI, sẽ
phản ánh những sự bất công và thiếu hoàn chỉnh
của trật tự quốc tế và hệ thống quản
trị toàn cầu hiện tại.
Giải thích và phản ứng
Chính phủ Trung Quốc tin rằng những hoài nghi và chỉ
trích này thường là do những sự hiểu lầm và
xuyên tạc. Một số chính phủ và học giả hiểu
sai về BRI v́ không được cung cấp đầy
đủ thông tin. Một số xuyên tạc tiêu cực xuất
phát từ định kiến đối với Bắc
Kinh và giúp kiềm chế Trung Quốc, và khi kết hợp
với những giải thích sai lầm về các mục
tiêu của Trung Quốc, chúng tạo nên suy nghĩ rằng
Trung Quốc đang đe dọa, từ đó lan truyền
h́nh ảnh tiêu cực về BRI. Ngoài ra, khoảng cách giữa
cái được đề xuất và cách thức thực
hiện đề xuất đó sẽ gây thêm sự hiểu
lầm. Tất nhiên, một số dự án BRI không hoàn hảo,
nhiều kế hoạch và cơ chế làm việc của
dự án cần được củng cố. Ví dụ,
Đường sắt Trung Quốc-châu Âu đă cải thiện
sự kết nối giữa các tỉnh của Trung Quốc
và các nước EU, nhưng dịch vụ này rất đắt
đỏ và cần phải được tổ chức
tốt hơn. Các học giả Trung Quốc đă đưa
ra nhiều chỉ trích và đề xuất nhằm chỉnh
sửa những chính sách và hoạt động đó. Tuy
nhiên, nếu các học giả cố ư phóng đại các
khía cạnh tiêu cực của BRI, th́ việc này rơ ràng sẽ
làm suy yếu dư luận quốc tế, vốn cần
thiết để thúc đẩy các cuộc thảo luận
và nghiên cứu sâu sắc về BRI.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đă có
nhiều nỗ lực nhằm làm tăng tính minh bạch của
BRI, và đảm bảo tính cởi mở và có đi có lại
của dự án nhằm tăng cường sự tin tưởng
lẫn nhau giữa các bên tham gia. Một mặt, Trung Quốc
khuyến khích các quan chức, các nhà b́nh luận truyền
thông và các học giả giải thích chính sách của nước
này thông qua việc diễn giải, nghiên cứu và truyền
đạt thông tin, từ đó đảm bảo các cộng
đồng trong nước và quốc tế hiểu một
cách toàn diện về BRI. Mặt khác, Trung Quốc đang nỗ
lực khuyến khích các chính phủ, doanh nghiệp và tổ
chức xă hội nước ngoài cho thấy sự cởi
mở, chia sẻ, phát triển và các đặc trưng khác
của BRI để nêu gương tốt và củng cố
nền tảng của BRI bằng cách tối ưu hóa mô
h́nh chính sách, thiết lập các tiêu chuẩn cao, và nâng cao chất
lượng dự án. Trung Quốc cũng hợp tác với
các tổ chức xuyên quốc gia để đạt
được lợi ích chung. Ví dụ, AIIB hợp tác với
Ngân hàng thế giới và Ngân hàng tái thiết và phát triển
châu Âu trong việc sàng lọc, thực hiện và giám sát các
dự án. Ngoài ra, các công ty Trung Quốc hợp tác với các
công ty từ Mỹ, Nhật Bản, Nga, các nước thành
viên EU và nhiều nước khác để thực hiện
một số dự án BRI.
Những nỗ lực của Trung Quốc nhằm mục
đích thuyết phục từng nước rằng nước
này sẽ không buộc họ phải chấp nhận các dự
án BRI trái với ư muốn của họ. BRI không phải là
một kế hoạch địa kinh tế do Trung Quốc
chi phối. Trung Quốc cũng không mong muốn thành lập
các tổ chức khu vực để chống lại EU,
EEU hoặc các tổ chức khác. Quan trọng hơn, Trung
Quốc có thể tôn trọng các mối quan ngại và lo lắng
của cộng đồng quốc tế, có thể cải
thiện BRI bằng cách liên tục học hỏi và sửa
chữa lỗi lầm, và có thể nỗ lực phát triển
với chất lượng cao nhất. Do đó, thông tin
không chính xác và suy nghĩ thiên vị là những trở ngại
đối với việc hiểu được mục
đích thực sự của BRI.
Vai tṛ của nhiều bên
tham gia
Các bên tham gia khác nhau phải thực hiện các chức
năng của riêng họ khi thực hiện các dự án
BRI. Điều đó có nghĩa là cần phải hợp lư
hóa mối quan hệ cơ bản giữa chính phủ và
doanh nghiệp, giữa chính trị và kinh tế. Cụ thể,
chính phủ là bên hoạch định chính sách, c̣n các doanh
nghiệp và xă hội là bên tham gia chủ yếu vào việc
xây dựng và thực hiện BRI. Mô h́nh BRI do chính phủ hướng
dẫn và doanh nghiệp dẫn đầu đă được
định h́nh trong 5 năm qua. Sẽ là sai lầm khi
đánh đồng các công ty Trung Quốc với các công cụ
chính sách của Chính phủ Trung Quốc khi xem xét và phân tích
BRI. Khó mà đưa ra một kết luận phù hợp với
thực tế trong khi phớt lờ các lợi ích bất
đồng giữa Chính phủ Trung Quốc và các doanh nghiệp
Trung Quốc trong quá tŕnh này.
Trên thực tế, các doanh nghiệp là trụ cột
chính thúc đẩy sự phát triển của BRI; mục
tiêu và hành động của họ có khi phù hợp cũng
có khi trái ngược với các chính sách của chính phủ.
Do đó, một mặt, Chính phủ Trung Quốc tích cực
hợp tác với các chính phủ khác để cải thiện
môi trường kinh doanh bằng cách phối hợp chính
sách và những dàn xếp thương mại và đầu
tư mới trong khuôn khổ BRI, và cũng mang lại sự
hỗ trợ liên quan cho các công ty Trung Quốc. Đây là yếu
tố quan trọng đảm bảo rằng BRI có thể
đạt được tiến bộ. Mặt khác, Chính
phủ Trung Quốc cũng coi trọng việc điều
chỉnh và chỉ đạo hành vi của các công ty thông qua
các quy tắc và luật pháp quốc tế, ngăn chặn
các nhà tài trợ v́ theo đuổi lợi nhuận quá mức
mà gây hại cho BRI, và tránh trường hợp các doanh nghiệp
và các nhà tài trợ chiếm lĩnh thị trường.
Những người có thể hưởng lợi từ
môi trường này không chỉ bao gồm các công ty nhà nước
Trung Quốc mà cả các công ty tư nhân. Đây là chủ
đề có thể rất dễ gây hiểu lầm. Một
số nhà quan sát phàn nàn rằng các công ty nhà nước
đă giành được phần lớn hỗ trợ và vốn
tài trợ khi thực hiện các dự án BRI, c̣n các công ty tư
nhân đă bị gạt ra ngoài lề. Trên thực tế,
Trung Quốc rất coi trọng vai tṛ của các công ty tư
nhân. Trong ngắn hạn, Trung Quốc sẽ để các
doanh nghiệp tư nhân đóng vai tṛ là lực lượng
mới thúc đẩy sự phát triển của BRI. Trong
dài hạn, Trung Quốc hy vọng tăng cường các
doanh nghiệp tư nhân thông qua BRI và từ đó tối ưu
hóa cấu trúc kinh tế quốc gia của ḿnh. Tuy nhiên, các
dự án BRI do các công ty nhà nước Trung Quốc thực
hiện thường có quy mô lớn, đ̣i hỏi nhiều
thời gian và vốn. Điều đó khiến các dự
án BRI của các công ty tư nhân nhỏ mới không thể
thu hút sự chú ư. Nhưng trong số hơn 20.000 doanh nghiệp
Trung Quốc đang tham gia BRI, các doanh nghiệp tư nhân
chiếm đa số. Năm 2017, thương mại giữa
các doanh nghiệp tư nhân và các nước tham gia BRI chiếm
43% tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc
và các nước đó. Trên thực tế, các công ty nhà nước
và tư nhân thường hợp tác để thực hiện
nhiều dự án BRI quy mô lớn, đặc biệt là các
dự án liên quan đến cơ sở hạ tầng.
Đúng là các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc
đă giành được những hợp đồng lớn
đó, nhưng họ hợp tác với khu vực tư
nhân, thường thuê các công ty tư nhân làm nhà thầu phụ
cho các dự án BRI.
Tái cân bằng cấu trúc
Tối ưu hóa là một phần then chốt trong những
nỗ lực của Trung Quốc nhằm đạt được
tiến triển về BRI trong 2 năm qua. Ban đầu,
Trung Quốc và các nước liên quan ưu tiên thị trường
quốc tế, v́ vậy các doanh nghiệp và tổ chức
xă hội Trung Quốc được khuyến khích thâm nhập
thị trường ở các nước khác. Do đó, các học
giả và công chúng cũng đă chú ư nhiều hơn đến
nỗ lực của các doanh nghiệp Trung Quốc ở nước
ngoài. Không có bất cứ nghi ngờ ǵ về việc thị
trường quốc tế rất quan trọng đối
với sự tiến triển của BRI, nhưng điều
đó không thể biện minh cho việc phớt lờ thực
tế là Trung Quốc đóng vai tṛ ngày càng lớn trong
tăng trưởng kinh tế quốc tế và phân phối
giá trị với tư cách là một trong những thị
trường lớn trên thế giới. Do đó, Trung Quốc
đă t́m cách cân bằng giữa việc mở cửa thị
trường nội địa và việc tham gia thị trường
quốc tế. Hội chợ triển lăm nhập khẩu
quốc tế Trung Quốc, đưa người mua Trung
Quốc đến với các công ty nước ngoài muốn
bán hàng hóa, là một trong những biểu tượng của
chính sách tái cân bằng đó.
Trên thực tế, BRI là một kế hoạch chiến
lược dựa trên chính sách mở cửa thị trường
nội địa của Trung Quốc. Một trong những
mục tiêu chính của BRI là tăng cường kết nối
kinh tế và xă hội giữa các vùng duyên hải và nội
địa của Trung Quốc, và giải quyết một
trở ngại đối với sự phát triển dài hạn
mà Trung Quốc phải đối mặt: bản chất
hai mặt của khu vực phía Đông và phía Tây, khu vực
thành thị và nông thôn. Với những thách thức bên ngoài
ngày càng tăng và cổ tức ngày càng giảm do gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới (WTO), việc
xây dựng lại mối quan hệ giữa các khu vực
này đă trở thành một nhiệm vụ cấp bách
đối với Trung Quốc. Cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu năm 2008 Trung Quốc càng cần phải
giải quyết vấn đề này, đồng thời
đẩy nhanh tốc độ phản ứng đối
với nó.
Kết luận
Mặc dù có nhiều hiểu lầm về BRI, nhưng ư
tưởng ban đầu đằng sau việc Trung Quốc
thực hiện sáng kiến này vẫn không thay đổi.
Trung Quốc hy vọng BRI sẽ mang lại sự phát triển,
thịnh vượng, ḥa b́nh và an ninh, và nước này hy vọng
sẽ hợp tác với tất cả các đối tác
để tạo ra một tương lai tươi sáng
cho thế giới. Do đó, Trung Quốc đang nỗ lực
thiết lập một mô h́nh mới để cải thiện
môi trường kinh doanh trong nước cho các công ty nước
ngoài và theo đuổi mục tiêu cùng với các bên tham gia
khác phát triển BRI đạt chất lượng cao như
mong muốn. Trong tương lai, việc làm tốt công tác
xây dựng dự án, phát triển thị trường,
đảm bảo an ninh tài chính, thông tin liên lạc, các hoạt
động tiêu chuẩn hóa và pḥng ngừa rủi ro sẽ
là những điểm then chốt của chính sách BRI của
Trung Quốc. Trong tiến tŕnh này, việc trao cho các công ty
vai tṛ dẫn đầu, thúc đẩy các quy tắc dựa
trên thị trường và tối ưu hóa sự cân bằng
giữa các thị trường nội địa và quốc
tế sẽ có ư nghĩa quan trọng đối với việc
hiện thực hóa tiềm năng BRI.
NHỮNG KẾT LUẬN
CHUNG
BRI đặt ra những thách thức và cơ hội
đáng chú ư đối với Trung Quốc, Nga và Mỹ, dẫn
đến những bất đồng về các mục
tiêu của sáng kiến và làm tăng khả năng xảy
ra hiểu lầm. Đối với Trung Quốc, BRI đại
diện cho tham vọng của Tập Cận B́nh củng cố
Trung Quốc với tư cách một cường quốc
toàn cầu, gia tăng ảnh hưởng toàn cầu và hướng
các ḍng chảy kinh tế toàn cầu về phía Bắc Kinh.
Hệ thống quốc tế hiện tại không thể
đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển
ngày càng tăng của nhiều nước trong cộng
đồng quốc tế. Trung Quốc thúc đẩy BRI
như một cách để cải thiện các hệ thống
quản trị toàn cầu và đẩy nhanh tốc độ
phát triển quốc tế. Ở Trung Quốc, BRI được
nh́n nhận là một dự án từ thiện nhằm thúc
đẩy sự hợp tác đôi bên cùng có lợi, cải
thiện quan hệ của Trung Quốc với các nước
khác và mang lại nhiều cơ hội hơn cho quan hệ
đối tác quốc tế.
Theo quan điểm của Nga, BRI chủ yếu là một
cơ hội kinh tế có những tác động lâu dài
đối với lợi ích chiến lược của
Nga. Moskva coi BRI là biểu tượng của sức mạnh
kinh tế và tài chính của Trung Quốc và mong muốn của
nước này khẳng định vị thế là một
cường quốc toàn cầu thông qua việc can dự
nhiều hơn ở nước ngoài. Nga đang tập
trung vào việc lợi dụng tiềm năng kinh tế của
BRI, đồng thời hạn chế khả năng của
Trung Quốc can thiệp vào an ninh và chủ quyền quốc
gia của chính họ. Xét tới mối quan hệ cá nhân bền
vững giữa Putin và Tập Cận B́nh, Moskva tự tin có
thể cân bằng các mục tiêu đan xen này.
Ở Mỹ, BRI phải đối mặt với sự
chỉ trích đáng kể v́ thiếu tính minh bạch và bền
vững kinh tế. Việc Washington đánh giá lại sự
can dự với Trung Quốc đă ảnh hưởng tiêu
cực đến quan điểm của các nhà hoạch
định chính sách về BRI. Washington không tán thành việc
cần thiết phải phát triển cơ sở hạ tầng
lớn nhưng xem xét sáng kiến này trong bối cảnh
Trung Quốc với địa vị là một cường
quốc mới nổi và là đối thủ cạnh tranh
của Mỹ. Nước này vẫn đang chật vật
t́m cách tham gia các cơ hội do sáng kiến mang lại trong
khi duy tŕ các tiêu chuẩn của riêng ḿnh và hạn chế sự
suy giảm ảnh hưởng và lợi ích của Mỹ.
Liệu BRI những tính toán địa chính trị có thúc
đẩy BRI hay không vẫn là vấn đề trung tâm của
cuộc tranh luận. Ở Trung Quốc, có một thông
điệp rơ ràng rằng các mục tiêu đă tuyên bố của
sáng kiến này – giải quyết nhu cầu phát triển cơ
sở hạ tầng toàn cầu và đóng góp vào sự
tăng trưởng kinh tế của các nước
đang phát triển – không mâu thuẫn với lập trường
của chính phủ rằng sáng kiến này không có bất
kỳ động cơ địa chính trị nào lớn hơn.
Nga và Mỹ thông qua các diễn giải của ḿnh về
dự án này thừa nhận rằng phát triển kinh tế
là nguyên lư trung tâm của BRI, nhưng ở các mức độ
khác nhau, họ cũng lo lắng về ư nghĩa địa
chiến lược của sáng kiến. Moskva phần lớn
không bày tỏ quan ngại về địa chính trị do
có mối liên kết chính trị chặt chẽ với Bắc
Kinh và những lợi ích tiềm năng của BRI. Tuy
nhiên, nước này vẫn quan ngại về những hậu
quả của một Trung Quốc mạnh mẽ thống
trị khu vực Á-Âu và đă t́m cách đa dạng hóa các mối
quan hệ kinh tế của ḿnh ở châu Á.
Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ nhấn
mạnh các mối liên kết không thể tránh khỏi giữa
các mục tiêu kinh tế và tác động địa chính trị
của BRI. Washington thấy rơ sáng kiến này có các động
lực chiến lược cơ bản và tiềm năng
thay đổi cục diện địa chính trị và các
tiêu chuẩn quản trị toàn cầu. Các dự án BRI dẫn
đến việc Trung Quốc chiếm giữ cơ sở
hạ tầng chiến lược ở nước ngoài
làm gia tăng những chỉ trích như vậy.
Cả Nga và Mỹ sẽ vui mừng khi thấy một
BRI toàn diện và minh bạch hơn bao gồm sự tham gia
nhiều hơn của các công ty không phải của Trung Quốc.
Nga đang tận dụng các cơ hội đầu tư
có sẵn và tích cực t́m cách hợp tác với Trung Quốc
về BRI. Các công ty Mỹ t́m kiếm cơ hội tham gia
các dự án BRI nhưng đă nêu bật một số trở
ngại, bao gồm thiếu thông tin có sẵn và quy tŕnh
đấu thầu [không] công bằng cản trở sự
cạnh tranh công bằng.
Những mối quan ngại này trái ngược với
tuyên bố của Bắc Kinh rằng BRI là toàn diện và cởi
mở. Trung Quốc khuyến khích các công ty nước ngoài
tham gia đồng thời đẩy lùi quan điểm cho
rằng họ đang ở thế bất lợi. Thay vào
đó, Trung Quốc cho rằng việc thiếu sự tham
gia của các công ty nước ngoài là do các công ty này không có
khả năng cạnh tranh với các công ty trong nước.
Trung Quốc sẽ phải giải quyết những quan ngại
này một cách hiệu quả để các công ty nước
ngoài tham gia nhiều hơn và làm giảm bớt những
quan ngại của Mỹ và Nga về tác động địa
chính trị của BRI.
Cả Trung Quốc lẫn Mỹ đều có thể học
hỏi từ những thành công của Ngân hàng đầu tư
cơ sở hạ tầng châu Á nhằm thúc đẩy một
BRI toàn diện và minh bạch hơn. Đối với Bắc
Kinh, điều này bao gồm việc chỉ định một
ban lănh đạo có thể tiếp cận và minh bạch chủ
động tham gia và ứng phó với các mối quan ngại
của quốc tế về BRI, thừa nhận cả những
thất bại và thành công của họ. Washington nên hiểu
rằng việc thẳng thừng lên án sáng kiến này chỉ
hạn chế khả năng Trung Quốc ghi nhận những
mối quan ngại chính đáng của Mỹ.
Vẫn c̣n một số cơ hội và thách thức
đối với BRI trong tương lai. Nga nhận thức
được sự bất cân xứng về kinh tế
ngày càng gia tăng với Trung Quốc nhưng quyết tâm
duy tŕ quan hệ với Trung Quốc với tư cách là
đối tác b́nh đẳng. Moskva sẽ tiếp tục ủng
hộ BRI, tập trung vào việc tích hợp các ưu tiên
phát triển và chính sách đối ngoại của riêng ḿnh
vào các dự án BRI. Ch́a khóa để đạt được
điều này là việc Nga vẫn giữ vững địa
vị là cường quốc quân sự vượt trội
ở Trung Á. Moskva cũng sẽ t́m cách tăng cường
quan hệ với các bên tham gia khu vực hùng mạnh khác
để cân bằng với ảnh hưởng ngày càng
tăng của Trung Quốc.
Mỹ sẽ tiếp tục ủng hộ việc
tăng cường tính minh bạch và bền vững kinh tế
trong các dự án BRI. Nước này hy vọng Bắc Kinh sẽ
chủ động đáp lại những chỉ trích của
họ, mà phần nhiều trong số đó có sự chia sẻ
của cộng đồng quốc tế. Nhận thức
của Washington về BRI có thể chịu ảnh hưởng
nặng nề của tính cạnh tranh ngày càng tăng của
mối quan hệ này. Tuy nhiên, nếu những chỉ trích của
Mỹ về sáng kiến này không được hậu thuẫn
bằng các lựa chọn chính sách hợp lư, th́ các nước
đang phát triển có thể sẽ tiếp tục chuyển
hướng sang Trung Quốc v́ họ cần phải phát
triển. Ưu tiên đối với Washington là tạo ra
các chính sách bảo vệ các lợi ích và giá trị của
Mỹ đồng thời khuyến khích Trung Quốc chấp
nhận chúng. Mặt khác, Washington có nguy cơ tạo ra một
môi trường được mất ngang nhau, trong đó
các nước phải lựa chọn giữa Mỹ và
Trung Quốc, một kết quả sẽ chỉ làm trầm
trọng thêm t́nh trạng căng thẳng giữa hai nước
này.
Trung Quốc đă nói rơ rằng BRI đă được
nhiều nước chấp nhận. Sáng kiến này đă
giúp mang lại cơ sở hạ tầng và đầu tư
cần thiết cho nhiều nước đang phát triển.
Nếu thành công, BRI có thể giúp Trung Quốc xác lập vị
thế của ḿnh là cường quốc kinh tế vượt
trội của thế giới. Tuy nhiên, khi sáng kiến này
được mở rộng, người ta càng xem xét kỹ
lưỡng hơn sự can dự quốc tế ngày càng
nhiều của Trung Quốc. Hơn nữa, sự thành công
của sáng kiến này không được đảm bảo.
Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc nhận thấy
có một số khó khăn và thách thức mà BRI phải
đối mặt trong tương lai, bao gồm những
quan điểm cho rằng nó chứa đựng những
tham vọng chiến lược lớn hơn người
ta tưởng, những quan ngại về tính bền vững
về kinh tế và tính minh bạch của các dự án, và sự
nhầm lẫn về cách dự án này bổ sung cho trật
tự quốc tế hiện tại hoặc làm thay đổi
nó. Tuy nhiên, kể từ khi BRI chính thức ra mắt, Bắc
Kinh đă tích lũy được một loạt dự
án đă hoàn thành và đang thực hiện, cả thành công lẫn
thất bại, từ đó học được những
bài học quư giá và điều chỉnh các thông lệ của
ḿnh khi cần thiết. Đối mặt với một nền
kinh tế trong nước đang giảm tốc, Bắc
Kinh sẽ phải giảm thiểu các khoản đầu
tư mạo hiểm và tổng hợp các bài học từ
những sai lầm trong quá khứ. Ở nước ngoài,
Trung Quốc cần chứng minh rằng họ đang tích
cực cải thiện BRI theo phản hồi của quốc
tế. Đây sẽ là ch́a khóa để đảm bảo
BRI thúc đẩy thay v́ cản trở tăng trưởng
kinh tế toàn cầu.
P.H. – D.T. – A.G. – F.Y. – M.B.
***
Paul Haenle, Trung tâm Chính sách Toàn cầu
Carnegie-Thanh Hoa. Dmitri Trenin và Alexander
Gabuev, Trung tâm Carnegie Moskva. Feng Yujun
và Ma Bin, Trung tâm Nghiên cứu Nga và Trung Á,
Đại học Phúc Đán Trung Quốc.
Bài viết được đăng trên Carnegie-Thanh Hoa.
Nguồn bản dịch: Nghiên
cứu Biển Đông
Trích: BVN 17.05.19
Mục
Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển
điện tử:
hay
www.dcvapt.net
Email: dcvapt@gmail.com
Hiệp Hội Dân Chủ và
Phát Triển Việt