DC&PT -
Thời Sự 2019
Phạm Sỹ Thành
IMF và WB cảnh báo
về các khoản vay của Trung Quốc cho các nước
nghèo
Nhà khoa
học Anh David Attenborough (P) và tổng giám đốc IMF
Christine Lagarde nhân khóa họp mùa xuân của Ngân hàng Thế
giới và IMF tại
Nhân khóa họp mùa xuân của hai
định chế, tại Washington, ngày hôm qua, 11/04/2019,
Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và Ngân Hàng Thế
Giới (WB) cảnh báo: Trung Quốc ngày
càng cho các nước nghèo vay nhiều hơn. Do vậy,
việc cho vay nên được thực hiện một
cách minh bạch, và không đẩy con nợ vào t́nh thế
nợ nần chồng chất, không trả nổi.
Phát biểu trong một cuộc
họp báo, tân chủ tịch người Mỹ của
Ngân Hàng Thế giới David Malpass nhắc lại rằng
các khoản vay góp phần giúp các nền kinh tế phát
triển, nhưng ông cảnh báo ngay: «Nếu việc cho vay
không được tiến hành trong minh bạch, nếu
việc vay nợ không mang lại kết quả thuyết
phục (về mặt phát triển của một quốc
gia), th́ khối nợ có thể là một gánh nặng
đáng kể cho nền kinh tế».
Chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới
nói thêm: «Lịch sử đầy rẫy những t́nh
huống theo đó nợ nần
chồng chất đă nhấn ch́m các nền kinh tế».
Theo ghi nhận của hăng tin Pháp AFP,
nh́n chung, hai định chế tài chánh hàng đầu
của thế giới đă kêu gọi Bắc Kinh minh
bạch hơn về quy mô các khoản tín dụng, cũng
như về các điều kiện cho vay.
Tài trợ của Trung
Quốc chủ yếu được dùng vào việc xây
dựng cơ sở hạ tầng, khai thác tài nguyên như
than đá, vào các ngành như viễn thông và giao thông vận
tải. Tại các nước
nghèo, các chương tŕnh cho vay đó trên lư thuyết là
nhằm thúc đẩy xuất khẩu để tăng thu nhập.
Thế nhưng, theo AFP, các khoản cho
vay của Trung Quốc càng nhiều, th́ những lời
chỉ trích càng lớn hơn, đặc biệt trên cách
thức Bắc Kinh cho vay. Trung Quốc
chẳng hạn đă bị chỉ trích là khuyến dụ
các nước châu Phi vay nợ, trong khi mà những
nước nhỏ nhất ở lục địa này
vừa mới giảm được phần nào gánh
nặng nợ nần.
Chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới
cảnh cáo rằng «hiện có đến 17 quốc gia châu
Phi ở trong t́nh trạng bị nợ cao đến
mức nguy hiểm, và số nước trong diện này
ngày càng tăng với các hợp đồng vay mới không
minh bạch ngày càng nhiều».
Ví dụ rơ rệt về tính chất
thiếu minh bạch là trường hợp nước châu
Phi Mozambique chẳng hạn, đang vướng vào tai
tiếng hơn 2 tỷ đô la nợ Trung Quốc mà dân
chúng nước này không hề hay biết.
Về phần ḿnh, Liên
Hiệp Châu Âu cũng lo ngại trước việc Trung
Quốc đang bơm tín dụng, với lăi suất
thấp, vào châu Âu, chẳng hạn vào vùng Balkan. Ví dụ như tại
Trung Quốc hiện đang cho
nhiều quốc gia đang phát triển vay tiền, trong
nỗ lực h́nh thành kế hoạch “Vành Đai, Con
Đường” của họ, đặc biệt nhắm
vào các quốc gia nhiều tài nguyên.
Trong buổi họp báo tại
Washington, giám đốc Quỹ Tiền Tệ Quốc
Tế, bà Christine Lagarde, cho rằng mức nợ cao và con
số những chủ nợ cho vay không tuân theo các quy
luật quốc tế, cũng sẽ làm phức tạp
hơn vấn đề trả nợ của một
nước.
Bà Lagarde xác nhận: «Cả Ngân Hàng
Thế Giới lẫn Quỹ Tiền Tệ Quốc
Tế hiện đang hợp tác để tạo thêm
sự minh bạch và để xác định
được các món nợ hiện có, từ trị giá món
nợ, điều kiện vay nợ, cho đến
thời hạn trả nợ».
Một bản báo cáo công
bố trong tuần này của IMF đă cảnh báo rằng
số nợ ngày càng lớn trên thế giới, kể
cả của các chính phủ và các công ty, đang là mối
đe dọa cho kinh tế toàn cầu.
Liên quan đến việc triển khai các dự án Vành
đai, Con đường (BRI) giữa Trung Quốc và các
nước khác trong 5 năm qua, nổi lên hai đặc
điểm khiến Mỹ liên tục tấn công vào BRI là
(i) BRI làm các quốc gia mắc nợ Trung Quốc, rơi
vào bẫy nợ không trả được và (ii) Trung Quốc
cung cấp phát triển chất lượng thấp
(low-quality).
Liên quan đến “bẫy nợ (debt trap)” có một
số câu hỏi quan trọng cần làm rơ:
1. Thế nào là bẫy nợ?
2. V́ sao vay vốn Trung Quốc lại rơi vào bẫy
nợ (nếu có)
3. Bẫy nợ th́ hậu quả thế nào?
4. Các quốc gia làm thế nào để tránh bẫy
nợ?
VỀ CÂU HỎI ĐẦU TIÊN: Thế nào là
một “bẫy nợ”?
Tôi cho rằng một bẫy nợ được h́nh
thành khi có (đủ) 4 yếu tố sau:
(i) các khoản vay lớn;
(ii) lăi suất cao;
(iii) vay trong thời gian ngắn (10 – 15
năm), ít ân hạn để phục vụ xây dựng
hệ thống CSHT [cơ sở hạ tầng] có mức
quay ṿng vốn lớn dẫn đến việc quốc
gia mất khả năng trả nợ; và phải
(iv) dùng các nguồn lực khác (tài
nguyên, chủ động về chính sách, ủng hộ
về chính trị v.v.) để trả nợ.
VỀ CÂU HỎI 2: V́ sao vay vốn Trung Quốc lại
rơi vào bẫy nợ?
Nghiên cứu của tôi phát hiện rằng,
có 6 nguyên nhân.
(i) Trung Quốc thường cho các
nước có xếp hạng tín nhiệm rất thấp
vay vốn. Các quốc gia nằm trong
chiến lược BRI được xếp hạng tín
nhiệm của Fitch chỉ dao động từ B
đến BBB. Trung Quốc thường bị coi là
quá mạo hiểm trong hoạt động đầu tư. Trong giai đoạn 2013 – 2015, có 6/10
quốc gia được Trung Quốc cấp tín dụng
phát triển nằm trong danh sách bị OECD đánh giá có
mức “rất rủi ro” về đầu tư phát
triển, trong khi con số này của WB chỉ là 2 quốc
gia. Nợ công của 27 nước BRI trong đánh giá
xếp hạng của Moody (2017) là “junk” (mức thấp
nhất trong nấc thang xếp hạng), trong khi 14
nước khác không được xếp hạng. Có 6/36
quốc gia từng nhận các khoản hỗ trợ của
IMF và WB để xử lư vấn đề nợ xấu
thông qua sáng kiến HIPC là các nước BRI gồm
(ii) Nhiều nước BRI sau khi vay vốn cũng không
đủ khả năng đưa ra các đánh giá tác
động của dự án, và trong một nền chính
trị tràn ngập tham nhũng với chất lượng
quản trị yếu kém, lănh đạo các địa
phương có thể t́m đến BRI để trục
lợi cho địa phương và cá nhân.
(iii) Trung Quốc thiếu kinh nghiệm cho
vay và thường cho vay với các tiêu chuẩn khác biệt
với thông lệ/tiêu chuẩn quốc tế. Hầu
hết các khoản cho vay của định chế tài chính
nhà nước Trung Quốc ở nước ngoài là dựa
trên các điều khoản thương mại và không
ưu đăi, chỉ có 20% các khoản cho vay phát triển
của Trung Quốc phù hợp với tiêu chí của Uỷ
ban Viện trợ Phát triển OECD (DAC) đối với
viện trợ phát triển chính thức (ODA) trong giai
đoạn 2000 – 2014. Trong khi đó con số này của
Mỹ là 93% và của các nước OECD là 80,6%,
của WB là 35,6%.
(iv) Các định chế tài chính đa phương và các
bên cung cấp tài chính phát triển song phương chủ
chốt đều công khai điều khoản tài chính
đối với các khoản vay dành cho chính phủ, trong
khi đó các ngân hàng chính sách của Trung Quốc không cung
cấp báo cáo về các khoản cho vay theo quốc gia, càng
không tiết lộ thông tin về điều khoản vay
vốn, khiến cho việc ước lượng nợ
quốc gia từ các khoản vay Trung Quốc trở nên vô
cùng khó khăn và tạo điều kiện cho tham nhũng.
(v) Trung Quốc không chính thức tham gia vào
bất kỳ cơ chế đa phương nào để
xử lư vấn đề nợ công hoặc điều
phối cùng các chủ nợ chủ chốt khác. Trung
Quốc đóng vai tṛ quan sát nhưng không phải thành viên
của Câu lạc bộ
(vi) Chi phí vay vốn của Trung
Quốc quá đắt. Tại Thái Lan,
VỀ CÂU HỎI 3: Bị bẫy nợ th́ hậu
quả là ǵ?
Mất chủ quyền qua con
đường kinh tế thông qua “bẫy nợ” là lời
cảnh tỉnh từ thực tiễn hợp tác BRI
của nhiều nước đang phát triển với
Trung Quốc.
Cơ chế mất chủ quyền đến từ
việc khi Trung Quốc cho vay vốn lớn để
đầu tư vào một dự án CSHT quy mô lớn,
nhưng năng lực trả nợ và sinh lợi của
dự án ở mức thấp, không đủ trả
nợ th́ chính CSHT đó sẽ được bàn giao cho
Trung Quốc quyền vận hành, kinh doanh trong một
thời gian dài (ví dụ 99 năm) như một cách
để hạch toán khoản nợ vay.
Những cái bẫy đối với nước sở
tại từ vốn Trung Quốc gồm có (i) lăi suất
cao; (ii) công ty Trung Quốc giành tỷ lệ lớn trong
doanh thu hàng năm của công tŕnh khiến lợi ích
thực tế của công ty bản địa ở
mức rất thấp; (iii) đề nghị tiếp
quản toàn bộ đối với công tŕnh hiện thời.
Điển h́nh là cảng Hambantota và
Ngoài ra, khi các nước t́m cách từ
chối tiếp tục vay hoặc điều chỉnh
điều khoản, Trung Quốc đă gây sức ép.
Chẳng hạn Trung Quốc dừng cấp vốn cho 3
dự án của
CÂU HỎI THỨ 4: Các quốc gia làm thế nào khi
rơi vào bẫy nợ?
(i) Đối với
Dự án này gồm hai hợp phần: một cảng
nước sâu (vốn ban đầu 7,3
tỷ USD) và một khu công nghiệp rộng 1000 mẫu Anh
(trị giá 2,7 tỷ USD). Chi phí xây cảng
Kyaukpyu được mô tả là “đắt một cách
nhân tạo”. Khoản nợ nước ngoài của
Myanmar hiện nay chiếm 14,5% GDP (năm 2018) trong đó 41%
là nợ Trung Quốc (tương ứng với 3,87 tỷ
USD), mức lăi suất cho vay ưu đăi của Trung
Quốc từ 0 – 4,5% trong khi lăi suất của ADB chỉ
dao động từ 0,01 – 1,5% với khoản vay 872
triệu USD (cho giai đoạn 2017 – 2022) và chính phủ
Nhật Bản cho Myanmar vay 2,13 tỷ USD (chiếm 23,3%
tổng nợ nước ngoài của Myanmar) chỉ
với lăi suất 0,01% trong thời hạn vay 40 năm.
Chính với lo lắng tài chính này, năm 2018, chính phủ
Myanmar đă yêu cầu Tập đoàn CITIC – một tập
đoàn DNNN Trung Quốc – cắt giảm quy mô dự án
cảng Kyaukpyu từ 7,3 tỷ USD xuống c̣n 1,3 tỷ USD
(giảm hơn 80% chi phí) với thiết kế ban
đầu 10 bến tàu giảm xuống c̣n 2 bến.
Đồng thời, tại Kyaukpyu SEZ, Myanmar muốn
giảm cổ phần của Trung Quốc từ 85%
xuống c̣n 70% nhưng điều này vẫn chưa
được đưa vào các thoả thuận của
CMEC.
(ii)
(iii)
(iv) Thái Lan, thay v́ xây dựng tuyến đường
sắt Nong Khai – Bangkok dài 873 km, tốn 10,8 tỷ USD, chính
phủ chỉ phê duyệt tuyến Bangkok – Ratchasima dài 500 km
với chi phí 5,8 tỷ USD. Và trên thực tế chỉ xây
dựng 3,5 km rồi dừng.
P.S.T.
Nghiên cứu quốc tế lấy bài từ Facebook
Phạm Sỹ Thành
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/forums/topic/bay-no-cua-trung-quoc-co-dang-so/
Trích: BVN 13.04.19
Mục
Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển
điện tử:
hay
www.dcvapt.net
Email: dcvapt@gmail.com
Hiệp Hội Dân Chủ và
Phát Triển Việt